PHẢI LÀM GÌ ĐỂ SẴN SÀNG GIAO TIẾP (LIÊN VĂN HÓA)? (P2)

By Kieu Khanh

Ở phần trước của loạt bài này, chúng ta đã cùng tìm hiểu 2 thuật ngữ Sẵn sàng giao tiếp (Willingness-to-communicate/WTC) và Sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa (Intercultural-willingness-to-communicate) là gì và bàn luận về những đặc điểm của 2 kỹ năng này. Trong bài tiếp theo này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng tới việc sẵn sàng giao tiếp (liên văn hóa).

NHỮNG YẾU TỐ NÀO ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ SẴN SÀNG GIAO TIẾP CỦA MỖI CÁ NHÂN?

Trong mô hình kim tự tháp về sự sẵn sàng giao tiếp, nền tảng quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự chủ động giao tiếp là tính cách cá nhân và môi trường sống (Tầng IV-VI) thuộc tính ổn định và bền vững trong khi các yếu tố liên quan đến tình huống (Tầng I-III) mang tính thay đổi và linh động [2]. 

Bên cạnh những ảnh hưởng về tính cách cá nhân, chủ động giao tiếp cũng bị ảnh hưởng bởi bốn ngữ cảnh tình huống giao tiếp khác nhau (trao đổi 1-1, trao đổi trong nhóm, buổi gặp gỡ, nơi công cộng) và với ba loại đối tượng giao tiếp khác nhau (người lạ, người quen, bạn bè) [3]. 

Mô hình kim t tháp ca vic Sn sàng giao tiếp

YẾU TỐ BÊN TRONG

Yếu tố tính cách gồm sự ngại ngùng, e dè (shyness) và sự tự tin (self-confidence) [1] [2]. Người cởi mở có xu hướng giao tiếp nhiều và thường tìm cơ hội giao tiếp; trong khi người sống khép kín dễ xấu hổ khi giao tiếp với người khác. Thế nhưng, tính cách cá nhân cũng chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến sự sẵn sàng giao tiếp bằng ngôn ngữ thứ hai, bất kể cá nhân ấy là người hướng nội hay người ngoại (P. 194) [4].  

Ngoài ra, động cơ (motivation), thái độ (attitudes) và niềm tin vào việc học ngôn ngữ thứ hai (belief about learning L2) cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến WTC [5]. Trong kết luận bài nghiên cứu của tác giả Quyên và cộng sự (2018) [6] đã cho thấy, trình độ tiếng Anh và động cơ học tập là yếu tố ảnh hưởng đến sinh viên đang học tập ngôn ngữ thứ hai tại một trường Đại học ở Hồ Chí Minh. Ngoài ra, bài nghiên cứu của Pragash và cộng sự (2018) [9] kết luận, nguồn gốc hay nơi sinh ra của mỗi cá nhân có xu hướng ảnh hưởng đến tính vị chủng (lòng tự tôn dân tộc), đồng thời lòng vị chủng cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa tại các trường đại học tư nhân ở Malaysia.

YẾU TỐ BÊN NGOÀI

Các yếu tố bên ngoài có thể bao gồm loại hình hoạt động (task type), đề tài (topic), đối tượng, đối tượng tham gia giao tiếp (interlocutor) và không khí lớp học (atmosphere) [6]. Cá nhân người học thường ưu tiên nói theo cặp hoặc nhóm hơn là một mình trước lớp hoặc với giáo viên. Bên cạnh đó, sự hứng thú, quen thuộc và có tính liên quan của đề tài cũng khiến  học viên cảm thấy thoải mái để giao tiếp và trao đổi trong môi trường học tập. Đồng thời, mỗi cá nhân có xu hướng bắt chuyện và thảo luận với người họ quen biết hơn là người lạ và sẽ tự nhiên hơn khi ở trong môi trường dễ chịu, an toàn, không áp lực. Ngoài ra có thể còn các yếu tố liên quan khác chưa được đề cập trong bài viết này.

LÀM SAO ĐỂ SẴN SÀNG GIAO TIẾP VÀ SẴN SÀNG GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA?

Đã hiểu được là cả yếu tố bên trong và bên ngoài đều góp phần tác động vào việc sử dụng cũng như học tập kỹ năng Sẵn sàng giao tiếp và Sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa, bây giờ chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những phương pháp nhằm hỗ trợ nâng cao 2 kỹ năng này.

HIỂU BIẾT VỀ MỨC ĐỘ CHỦ ĐỘNG GIAO TIẾP CỦA BẢN THÂN

Để nhận biết bản thân có khả năng chủ động giao tiếp và chủ động giao tiếp liên văn hóa hay không, mỗi cá nhân có thể thực hành phân tích và đánh giá bản thân về sự chủ động giao tiếp và chủ động giao tiếp liên văn hóa dựa trên các tình huống, đối tượng giao tiếp (đã được đề cập trong bài) cùng những yếu tố nội tại của bản thân và yếu tố bên ngoài tác động vào sự phát triển năng lực cá nhân. Bên cạnh đó, tìm ra những chủ đề phù hợp mà bản thân có thể chủ động giao tiếp với bất kỳ đối tượng và tình huống giao tiếp để tăng khả năng chủ động giao tiếp nhiều hơn.

CẢI THIỆN KỸ NĂNG GIAO TIẾP VÀ SỰ SẴN SÀNG GIAO TIẾP

Từ sự nhìn nhận và hiểu rõ bản thân về khả năng sẵn sàng giao tiếp xã hội, mỗi cá nhân có thể nâng cao, duy trì và cải thiện kỹ năng giao tiếp như rèn luyện thuyết trình trước công chúng (public speaking) để vượt qua nỗi sợ hãi, tham gia các câu lạc bộ thuyết trình như Toastmasters Club hay Tedx để trải nghiệm, hoặc chủ động chia sẻ trải nghiệm cá nhân trước một nhóm bạn bè nhỏ. Ngoài ra, tham gia lớp học hài kịch ứng tác (Improvisation) [7] cũng giúp bạn chủ động giao tiếp một cách tự nhiên, bởi kịch ứng tác không hề có kịch bản hay đạo diễn, không có sự chuẩn bị hay kế hoạch lên trước một cách kỹ càng. 

Ngoài ra, tác giả Quyên và cộng sự [6] gợi ý các hoạt động: thảo luận nhóm, sơ đồ tư duy, thuyết trình, phân vai đóng kịch theo tình huống tại lớp học để nâng cao sự sẵn sàng giao tiếp bằng ngôn ngữ thứ hai (tiếng Anh). Sau một thời gian, các sinh viên đã cảm thấy thoải mái và tự tin hơn khi giao tiếp tiếng Anh và không bị cản trở về ngôn ngữ. Hơn nữa, tác giả đưa bài tập phỏng vấn người nước ngoài cũng như mời sinh viên quốc tế nói tiếng Anh chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi văn hóa thông qua giao tiếp thật (real communication) cũng đã giúp sinh viên vượt qua nỗi sợ hãi và đem lại hiệu quả tích cực trong giao tiếp bằng tiếng Anh tại trường. 

TÌM CƠ HỘI GIAO LƯU VĂN HÓA VỚI CÁC BẠN BÈ QUỐC TẾ

Ngoài việc nâng cao vốn sống bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, học thêm ngôn ngữ mới và tìm kiếm những người bạn quốc tế có sử dụng cùng loại ngôn ngữ ấy để kết bạn và giao lưu sẽ giúp bạn tăng khả năng sẵn sàng giao tiếp văn hóa nhiều hơn. Nếu bạn ngại ngùng trao đổi ngôn ngữ thứ hai trước đám đông, bạn có thể thử các ứng dụng điện tử như HelloTalk, Bilingua, HelloPal, Italki, v.v để giao tiếp qua gọi điện hoặc trao đổi tin nhắn [8]. Ngoài ra, bạn có thể kết hợp tham gia các hoạt động xã hội như hướng dẫn viên du lịch cho người nước ngoài, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, hay theo dõi các chương trình sự kiện giao lưu văn hóa, v.v.  

PHẢI LÀM GÌ ĐỂ SẴN SÀNG GIAO TIẾP (LIÊN VĂN HÓA)? (P1)

By Kieu Khanh

Được viết bởi Kiều Khanh

Đã bao giờ bạn ngại ngùng khi giao tiếp với người lạ trên phố hoặc cảm thấy tự ti khi nói chuyện với bạn quốc tế? Việc sử dụng ngôn ngữ thứ hai có phải là một rào cản khiến bạn khó kết nối với người dân và văn hóa của một đất nước khác? 

Bài viết này sẽ đưa bạn cái nhìn tổng quan về sự sẵn sàng giao tiếp (willingness-to-communicate) và sự sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa (intercultural-willingness-to-communicate) của mỗi cá nhân đến cuộc sống xung quanh.

Discussion and communication in the office, teamwork, brainstorming. Vector illustration.

Thử một trò chơi nhỏ: Bạn hãy đặt những ngón tay của bạn lên cổ họng và nói “abracadabra”. Bạn cảm thấy có sự rung động nhẹ trong thanh quản của bạn không? Nhiều nhà nghiên cứu [1] cho rằng, bộ phận thanh quản này là nơi con người sử dụng để giao tiếp ngôn ngữ và cho đến năm 2019, có khoảng 6,500 nguồn ngôn ngữ khác nhau được sử dụng trên toàn thế giới [2]. 

Khả năng giao tiếp đã và đang là nền tảng của mối quan hệ tương tác giữa người với người. Nó không chỉ giúp thúc đẩy quá trình trao đổi thông tin và kiến thức mà cũng giúp con người xây dựng mối quan hệ với những người khác [3]. 

Hơn nữa, cùng với sự toàn cầu hóa về kinh tế, thương mại và xã hội bắt đầu nổ ra mạnh mẽ từ cuối thế kỷ thứ XIX [4], Việt Nam đang dần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao và bồi dưỡng tài nguyên con người để phát triển nền kinh tế và giáo dục đất nước. 

Do vậy, hiểu biết về khả năng sẵn sàng giao tiếp và sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa (willingness-to-communicate vs. intercultural-willingness-to-communicate) có thể giúp mỗi cá nhân nâng cao kỹ năng giao tiếp và khả năng hòa nhập với môi trường quốc tế, nâng cao năng lực liên văn hóa. Từ đó, mỗi cá nhân có thể sử dụng ngoại ngữ như một thế mạnh để hiện thực hóa ước mơ vươn ra thế giới. 

SẴN SÀNG GIAO TIẾP VÀ SẴN SÀNG GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA LÀ GÌ?

Theo McCroskey [5], trò chuyện nắm giữ vai trò chính trong giao tiếp, bởi nếu không có sự chia sẻ trong giao tiếp xã hội, ông thấy mối quan hệ giữa người với người không có lý do gì để tồn tại. Đồng thời, trò chuyện trong giao tiếp và sự phát triển xã hội có thể khác biệt ở mỗi cá nhân, tùy thuộc vào mức độ họ chủ động giao tiếp ít hay nhiều, cũng như ở một số ngữ cảnh và đối tượng nhất định.

SẴN SÀNG GIAO TIẾP (WILLING-TO-COMMUNICATE/WTC)

Trong phạm vi ngôn ngữ mẹ đẻ, định nghĩa sẵn sàng giao tiếp là khả năng tham gia giao tiếp khi được quyền lựa chọn [6]. Còn trong phạm vi ngôn ngữ thứ hai, định nghĩa của WTC là “sự sẵn sàng tham gia giao tiếp tại một thời điểm cụ thể với một hay nhiều người cụ thể bằng ngôn ngữ thứ hai”. Hơn nữa, WTC bằng ngôn ngữ thứ hai có liên quan đến tình huống [6] (P. 546). Bên cạnh đó, sẵn sàng giao tiếp là xu hướng cá nhân chủ động trò chuyện với người khác, khi cá nhân ấy có thể lựa chọn nên bắt chuyện hay không [5].

Bên cạnh đó, Kang (2005) [7] kết luận WTC bằng ngôn ngữ thứ hai là xu hướng chủ động tích cực tham gia của cá nhân vào hoạt động giao tiếp trong tình huống cụ thể. Tính chủ động thay đổi tùy vào người tham gia giao tiếp, ngữ cảnh giao tiếp và các yếu tố tình huống khác. (P. 291)

SẴN SÀNG GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA (INTERCULTURAL-WILLING-TO-COMMUNICATE/IWTC)

Sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa [8] là thiên hướng của cá nhân đến sự bắt đầu giao tiếp trong môi trường liên văn hóa. Ngoài ra, WTC đề cập đến sự chủ động giao tiếp với bạn bè, người quen biết và người lạ ở các tình huống (giữa hai người, trong nhóm, buổi gặp gỡ,  và công cộng), trong khi IWTC hướng đến sự sẵn sàng giao tiếp của cá nhân trong ngữ cảnh giao tiếp với những người đến từ chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa khác biệt. Theo kết quả nghiên cứu của Kassing, người có sự sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa cao hơn có xu hướng có bạn bè ngoại quốc nhiều hơn là những người có sự chủ động giao tiếp liên văn hóa thấp. 

Thêm vào đó, IWTC và WTC có mối tương quan lẫn nhau, bởi người có sự sẵn sàng giao tiếp thấp có thể có sự sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa thấp. Tuy nhiên, người có sẵn sàng giao tiếp cao có thể hoặc chưa chắc sẽ sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa cao. IWTC cũng được đề cập như một dấu hiệu tích cực đầu tiên để gắn kết sự tương tác trao đổi liên văn hóa (Justen, 2009). Đồng thời, Jackson (2014) [9] giải thích thêm, những người với sự chủ động giao tiếp cao sẽ không đợi đối phương bắt chuyện, họ có xu hướng tiếp cận đối phương để mở lời trước, tương tác trao đổi liên văn hóa và thể hiện sự sẵn lòng giao tiếp nhiều với đối phương. Họ cũng nỗ lực chia sẻ cảm nhận và ý tưởng với những người đến từ nền văn hóa khác biệt. 

Trở lại phần đầu bài, bạn có băn khoăn cụm từ “abracadabra” nghĩa là gì? Theo tiếng Do Thái, “abracadabra” có thể được dịch là “I will create as I speak” (Tôi sẽ tạo ra khi tôi nói), ngụ ý hành động giao tiếp sẽ tạo ra những hiện thực mới một cách màu nhiệm [10]. Do vậy, sự sẵn sàng giao tiếp và sẵn sàng giao tiếp liên văn hóa sẽ giúp bạn nhìn nhận và quan sát cuộc sống này với nhiều góc nhìn về nền văn hóa, xã hội, lịch sử khác nhau trên thế giới.

Bài viết tiếp theo sẽ đề cập đến những yếu tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng giao tiếp và giao tiếp liên văn hóa cũng như làm sao để cải thiện sự sẵn sàng giao tiếp của mỗi cá nhân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1] Rachel Gutman (2019). A ‘Mic Drop’ on a Theory of Language Evolution. Retrieved from https://www.theatlantic.com/science/archive/2019/12/when-did-ancient-humans-start-speak/603484/. Accessed on 13/11/2020

[2]  Anna Klappenbach (2019). Most spoken languages in the world 2020. Retrieved from https://blog.busuu.com/most-spoken-languages-in-the-world/. Accessed on 13/11/2020.

[3] Route Communications (2017). Why Is Communication Important To Human Life? Retrieved from http://routecommunication.com/why-is-communication-important-to-human-life.html. Accessed on 13/11/2020.

[4] Phạm Văn Đức (2016). Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt Nam hiện nay. Retrieved from

http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Chinh-tri-Xa-hoi/Toan-cau-hoa-va-su-tac-dong-cua-no-doi-voi-Viet-Nam-hien-nay-277.html. Nguồn: Tạp chí Triết học, số 3(178), tháng 3 – 2006. Accessed on 10/11/2020

[5]  McCroskey, James C.; Baer, J. Elaine (1985). Willingness to communicate: The construct and its measurement.  Annual Meeting of the Speech Communication Association (71st, Denver, CO, November 7-10, 1985). https://files.eric.ed.gov/fulltext/ED265604.pdf

[6] Peter D. MacIntyre, Richard Clement, Zoltan Dornyei, Kimberly A. Noels (1998). Conceptualizing Willingness to Communicate in a L2: A Situational Model of L2 Confidence and Affiliation. Modern Language Journal 82(4):545-562. DOI: 10.1111/j.1540-4781.1998.tb05543.x

[7] Kang, S.-J. (2005). Dynamic emergence of situational willingness to communicate in a second language. System, 33(2), 277–292. doi:10.1016/j.system.2004.10.004 

[8] Jeffrey W. Kassing (1997). Development of the Intercultural Willingness to Communicate Scale. Communication Research Reports/Fall 1997, Volume 14, Number 4, Pages 399-407.

https://www.academia.edu/23829774/Development_of_the_Intercultural_Willingness_to_Communicate_Scale

[9] Pragash, M. 1 Sultana, M. A.2 Khor, K. K. (2018). Ethnocentrism and Intercultural Willingness to Communicate: A Study of Malaysian Private University. Volume: 3 Issues: 12 [December, 2018] pp.16-23] International Journal of Law, Government and Communication eISSN: 0128-1763 Journal website: www.ijgc.com

[10] Rabbi Julian Sinclair. (2018). Abracadabra. Retrieved from

https://www.thejc.com/judaism/jewish-words/abracadabra-1.466709. Accessed on 13/11/2020

THÔNG HIỂU TRUYỀN THÔNG – P3: CÁC LOẠI BẪY THÔNG TIN VÀ NĂM NGUYÊN TẮC VÀNG TRONG THÔNG HIỂU TRUYỀN THÔNG

By Kieu Khanh

Được viết bởi Kiều Khanh

Trong phần 2 của loạt bài về Thông hiểu truyền thông (Media Literacy), chúng ta đã cùng tìm hiểu về các loại hình thông tin sai lệch cũng như lịch sử hình thành của chúng trên thế giới. Trong bài viết lần này, chúng ta sẽ cùng đi kỹ hơn vào các loại bẫy truyền thông xã hội (social media trap) được tạo nên bởi những loại thông tin sai lệch, và cùng đi sâu hơn vào những ví dụ trong truyền thông Việt Nam.

ĐỊNH NGHĨA VỀ BẪY TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI (SOCIAL MEDIA TRAP)

Bẫy truyền thông xã hội (Social media trap) định nghĩa bởi Vinalink Media JSC [4] là một chiếc bẫy mà người dùng mạng xã hội bị dẫn dắt vào những câu chuyện không đầu không cuối, các cuộc tranh luận vô tiền khoáng hậu về hành vi, ngôn từ, những sự kiện nóng hổi hay các chủ đề sex-sốc-sến, và làm sai lệch nội dung ban đầu.

Người sử dụng mạng dễ dàng bị “dắt mũi” nếu họ ngây thơ và thả trôi thông tin theo những gì báo chí hay mạng xã hội đưa ra. Do vậy, bất kỳ ai trong chúng ta nếu không cẩn trọng đều có thể bị “sập bẫy” bởi giới truyền thông. Họ lợi dụng tâm lý “nhẹ dạ cả tin” của người đọc để dẫn dắt dư luận, và để lấp đầy thông tin về xã hội và thế giới cho những đối tượng có nhiều óc tò mò, hoặc có hội chứng FOMO (fear of missing out – hội chứng sợ bỏ lỡ những điều thú vị mà người khác đang trải nghiệm).

NHỮNG BẪY TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI HƯỚNG TỚI ĐỘC GIẢ

HƯỚNG ĐẾN TÂM LÝ CON NGƯỜI

Năm 2019, Coca Cola thực hiện chiến dịch “Try not to hear this” [5] ở thị trường châu Âu với hội chứng synesthesia – hiện tượng xảy ra trong não khi có sự kết hợp giữa các giác quan (thị giác, thính giác và vị giác). Khi tôi nhắc đến vị chua của quả chanh, chắc hẳn bạn đang có cảm giác cồn cào ở cổ họng, vị chua ở đầu lưỡi, và enzyme bắt đầu tiết ra trong miệng đúng không? Tất cả xảy ra trong bộ não và tác động đến các bộ phận cơ thể của bạn.

Trong chiến dịch quảng cáo này, các nhà marketer của Coca Cola khơi gợi âm thanh trong ký ức đã được lưu trữ trong trí nhớ của khách hàng. Và thương hiệu muốn kết nối những ai đã từng trải nghiệm âm thanh của Coke sẽ nhớ lại thương hiệu của họ. Ý tưởng rất sáng tạo nhưng bạn hãy cẩn thận, tình cờ vào một cửa hàng tiện lợi để mua đồ về nhà, bạn có thể “bị lừa” bởi chiến dịch và dễ dàng mua một chai Coke, cảm nhận âm thanh sống động khi bật nắp, hay tiếng xì xèo của bọt Coke.

Hay cách nhà quảng cáo ứng dụng mùi hương trong quảng cáo ngoài trời để kích thích khứu giác và cảm giác thèm ăn của khách hàng: mùi khoai tây nướng của McCain tại trạm xe buýt ở Anh, mùi bánh táo mới nướng phảng phất trong chuyến tàu điện được thực hiện bởi Heel Holland Bakt tại Hà Lan để khơi gợi một căn bếp di động [6] hay chiến dịch Wall & Chain (Bức tường và Xiềng Xích) đầy cảm động của Airbnb hướng ngày Kỉ niệm 26 năm bức tường Berlin sụp đổ [7] thông qua kỹ thuật kể chuyện (storytelling) để đánh vào tâm lý con người.

Bạn có nghĩ, những chiến lược đầy ý nghĩa và cảm động này chỉ muốn đưa bạn một câu chuyện thú vị? Ồ không! Các tập đoàn, các nhà nghiên cứu đều làm vì một mục đích nào đó, giống cách chủ tòa soạn Pulitzer đã làm với cậu bé Yellow Kid năm nào. 

 Trong kiến thức về marketing, psychographics là một trong những nhân tố quan trọng để các marketers có thể định vị và tìm ra insights của khách hàng. Họ sử dụng psychographics [8] để tìm hiểu tại sao chúng ta mua sản phẩm bằng cách nghiên cứu về nhân cách (personality), các giá trị đạo đức (values), hành vi thái độ (attitudes), sở thích (interests) và lối sống (lifestyles); đồng thời ứng dụng demographics nhân khẩu học (về tuổi tác, giới tính, chủng tộc, nơi sinh sống và tình trạng nghề nghiệp) để nắm bắt tâm lý người dùng. Marketers giống như những bà mối đầy khéo léo, họ tìm hiểu chúng ta thật kĩ càng và tìm kiếm phương pháp tiếp cận phù hợp nhất để đưa bạn tình cho khách hàng.

CUNG CẤP THÔNG TIN MỘT CHIỀU

Vừa mới đây, showbiz Việt rùm beng mối tình tay ba giữa Sơn Tùng MTP, Thiều Bảo Trâm và Hải Tú [9] cùng MV mới “Chúng ta của hiện tại” mà nhiều bạn có thể biết. Ba nhân vật chính này chưa đưa ra một lời xác thực hay công khai bất kỳ điều gì về “mối tình lâu năm” giữa Sơn Tùng và Thiều Bảo Trâm, hay “phim giả tình thật” giữa Sơn Tùng MTP và Hải Tú.

Nhưng báo chí lá cải Việt đã viết gì? Nhiều đối tượng đã nghiên cứu tài khoản instagram của ba nhân vật, tìm ra các dấu hiệu chung, đưa ra các giả định và quy chụp những thông tin họ tìm kiếm là thật. Sự thực là, Sơn Tùng chưa bao giờ công khai anh có người yêu và Thiều Bảo Trâm cũng chưa cung cấp thông tin gì. Các fan “stalk” thấy họ đã đi du lịch cùng nhau suốt 7-8 năm qua và cho rằng họ là người yêu chính thống. Sau đó, chính họ đặt Hải Tú là “trà xanh” và phê phán hành động của cô xen vào mối quan hệ ấy. Đến hiện tại, cả ba nhân vật chính đều im lặng, và công ty M-TP Entertainment chưa có bất kỳ phản hồi gì về vấn đề này. Cộng đồng netizen của showbiz Việt thực sự đang làm quá sức vì một công trình chưa chắc đã là của họ.

Trở lại khóa Media Literacy của Crash Course đã được tác giả tham khảo cho bài viết trước, Smooth đã chia sẻ: “When something is free, you are the product”. Khi nhìn nhận quan điểm này từ khóa học, nếu ai cũng tin ngay vào lời Smooth nói thì chắc hẳn ai cũng hoang mang khi sử dụng mạng? Tác giả Faith Rogow trong bài bình luận về khóa học này [10] đã phản biện, điều này không hoàn toàn chính xác. Nếu bất kỳ sản phẩm nào miễn phí và chúng ta bị đem bán thì những nguồn tài liệu mở hay chính bài viết này cướp đi của bạn điều gì? Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các lý luận về điểm tốt, điểm giới hạn và góp ý mở rộng về nội dung khóa học mà người đọc cần suy ngẫm, nghiên cứu và hoài nghi với các thông tin được cung cấp. 

BỊ “DÁN NHÃN”

Nhà lý thuyết văn hóa học Stuart Hall cho rằng, ý thức hệ phân biệt chủng tộc (racist ideologies) đang lan rộng khắp truyền thông và điều này gây hiểu lầm, và tai hại khi chúng ta để truyền thông định hướng một quan niệm duy nhất về phân biệt chủng tộc trên thế giới. Cũng như việc chúng ta dán nhãn lên người châu Á mọt sách (nerdy Asian), (token minority), những người đồng tính nữ “nam tính” (butch lesbian) hay tụi châu Âu ham mê tình dục (kinky European) và để chúng làm đại diện cho toàn bộ một cộng đồng (dân tộc, giới, tuổi tác, khuyết tật, chủng tộc, định hướng giới) (trích từ khóa Media Literacy của Crash Course).

Ngoài ra, khi nhận thức “Hồng là cho bé gái, xanh là cho bé trai”, hay khi tiếp nhận những khẩu hiệu tuyên truyền “Đừng để HIV hủy hoại cuộc đời bạn” với quả cầu gai, đầu lâu trên khắp đường phố, liệu rằng chúng ta có đang bị ảnh hưởng bởi những poster tuyên truyền và tạo ra những khuôn mẫu về giới và sự phán xét lên những người mắc căn bệnh thế kỷ HIV không? 

Vậy hãy thử một bài test đơn giản, tác giả Ngọc Hà của Vietcetera đã chia sẻ 12 thiên kiến xác nhận (cognitive bias) mà mỗi người có thể mắc phải [11], như khuynh hướng khuôn mẫu (stereotyping), thiên kiến về giới (gender bias), hiệu ứng sai lệch thông tin (misinformation effect) hay ngụy biện trong lập luận (logical fallacy). Hãy nhìn nhận xem bạn đã từng mắc phải những sai lầm này trong quá khứ chưa? Và bạn đạt bao nhiêu điểm trên 12 thiên kiến xác nhận ấy? Làm thế nào để sửa đổi?

5 NGUYÊN TẮC GIÚP BẠN TRÁNH KHỎI CÁI BẪY CỦA TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

Giáo sư John Naisbitt từng nói: “Chúng ta đang chết đuối trong thông tin nhưng lại chết đói về tri thức.” (We are drowning in information but starved for knowledge.). Và ông cũng chỉ ra rằng trong thế giới thay đổi liên tục này, kỹ năng quan trọng nhất cần có là học phương pháp học.

Trong khóa học Media Literacy của Crash Course, Renee Hobbs đã gợi ý 5 câu hỏi [12] giúp bạn tìm hiểu sâu hơn về việc thông tin mạng được cung cấp như thế nào:

  1. Ai đã tạo ra thông điệp và mục đích của thông điệp này là gì?
  2. Thông điệp này sử dụng phương pháp, kỹ thuật nào để thu hút sự chú ý của độc giả?
  3. Bài viết này mô tả, phản ánh phong cách, giá trị hay quan điểm gì?
  4. Mỗi cá nhân có thể hiểu thông điệp này như thế nào? 
  5. Điều gì bị bỏ lỡ hay không được đề cập đến trong bài viết này?

Đồng thời, tác giả Nguyen Thu Giang và Bùi Việt Hà (2010) [13] cũng đưa thêm năm câu lập luận đi cùng với 5 câu hỏi của Renee Hobbs:

  • Thông điệp truyền thông được xây dựng có tính chủ ý (Ai tạo ra thông điệp?)
  • Các thông điệp truyền thông được áp dụng những hình thức sáng tạo riêng biệt (Những kỹ thuật, phương thức nào được sử dụng trong thông điệp truyền thông để thu hút sự chú ý?)
  • Một thông điệp truyền thông được tiếp nhận khác nhau với những đối tượng khác nhau (Những người khác sẽ tiếp nhận thông điệp này khác tôi như thế nào?)
  • Truyền thông chứa đựng giá trị và quan điểm (Giá trị, quan điểm, lối sống nào được thể hiện, hoặc bị loại khỏi thông điệp?
  • Hầu hết các thông điệp truyền thông được cấu trúc để đạt mục đích lợi nhuận hoặc quyền lực (Tại sao thông điệp được gửi đi?)

Và từ đây, bạn có thể bắt đầu tò mò và đặt ra các câu hỏi liên quan đến bộ phim gần nhất bạn đã coi trên rạp, bộ sản phẩm dưỡng da bạn mới mua, hay một trò chơi điện tử được bán ở cửa hàng, những sản phẩm truyền thông này đã có một chặng đường dài như thế nào để có thể đến tay bạn?

NGUỒN THAM KHẢO:

[1] Câu chuyện “Thử thách Momo” khiến bé trai 8 tuổi tử vong (28/11/2020) 

https://laodong.vn/xa-hoi/momo-thu-thach-tro-choi-gi-khien-be-trai-8-tuoi-tu-vong-bat-thuong-857795.ldo Accessed 05/12/2020

[2] Clip Spiderman Elsa trên Youtube có những hình ảnh nhạy cảm, bạo lực, không phù hợp với trẻ em nhưng được nhà sản xuất/kênh Youtube dán mác Dành cho Trẻ em  

https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/goc-phu-huynh/tre-em-viet-dang-bi-dau-doc-boi-clip-gan-elsa-phan-cam-352364.html Accessed 05/12/2020

[3] Thùy Chi (2017). Kênh Youtube nổi tiếng Thơ Nguyễn lại bị dân mạng chỉ trích vì làm clip “nghịch dại” cho trẻ em. https://kenh14.vn/kenh-youtube-noi-tieng-tho-nguyen-lai-bi-dan-mang-chi-trich-vi-lam-clip-nghich-dai-cho-tre-em-20170628122733359.chn Accessed 05/01/2020

[4] https://www.slideshare.net/vinalink/by-truyn-thng-mng-x-hi-social-media-trap Accessed 05/01/2021

[5] Brands Vietnam (2019). “Try not to hear this: Khi hình ảnh phát ra tiếng động”

https://www.brandsvietnam.com/campaign/576-CocaCola-Try-not-to-hear-this-Khi-hinh-anh-phat-ra-tieng-dong Accessed 06/02/2021

[6] Thu Nguyệt (2021). “Tích hợp mùi hương trong các chiến dịch quảng cáo ngoài trời”. https://www.brandsvietnam.com/congdong/topic/29313-Tich-hop-mui-huong-trong-cac-chien-dich-quang-cao-ngoai-troi Accessed 06/02/2021

[7] Nhật Ánh (2020). “Bức tường và Xiềng xích – Khám phá nghệ thuật kể chuyện từ chiến dịch thành công của Airbnb”.

https://advertisingvietnam.com/buc-tuong-va-xieng-xich-kham-pha-nghe-thuat-ke-chuyen-tu-chien-dich-thanh-cong-cua-airbnb Accessed 06/02/2021

[8] Alex Birkett (2020). “Psychographics: What They Are & How Marketers Use Them”. https://cxl.com/blog/psychographics/ Accessed 06/02/2021

[9] Tâm An (2021). “Scandal “trà xanh” của Sơn Tùng MTP dưới góc nhìn kinh doanh: Đừng đùa với đám đông giận dữ!” https://cafef.vn/scandal-tra-xanh-cua-son-tung-mtp-duoi-goc-nhin-kinh-doanh-dung-dua-voi-dam-dong-gian-du-20210128134653789.chn Accessed 06/02/2021

[10] Faith Rogow (2019). “MEDIA RESOURCE REVEW Crash Course in Media Literacy”.   The National Association for Media Literacy Education’s Journal of Media Literacy Education 11 (1), 120 – 126. https://doi.org/10.23860/JMLE-2019-11-1-7. Accessed 30/11/2020

[11] Ngọc Hà (2021). “12 thiên kiến thường gặp: Nguyên nhân của những sai lầm mà bạn đang mắc phải” https://vietcetera.com/vn/12-thien-kien-thuong-gap-nguyen-nhan-cua-nhung-sai-lam-ban-dang-mac-phai Accessed 06/02/2021

[12] Young African Leaders Initiative. “Media Literacy: Five Core Concepts https://yali.state.gov/media-literacy-five-core-concepts/ Accessed 30/11/2020

[13] Nguyen Thu Giang, Bùi Việt Hà. 2010. Tri tạo truyền thông – Một cách tiếp cận mới trong giáo dục. Bài đăng trên Tạp chí Con người số 1/2010. Accessed 30/11/2020

https://www.academia.edu/10633062/Tri_t%E1%BA%A1o_truy%E1%BB%81n_th%C3%B4ng_M%E1%BB%99t_c%C3%A1ch_ti%E1%BA%BFp_c%E1%BA%ADn_m%E1%BB%9Bi_trong_gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_T%E1%BA%A1p_ch%C3%AD_Nghi%C3%AAn_c%E1%BB%A9u_Con_ng%C6%B0%E1%BB%9Di_S%E1%BB%91_1_2010

GỢI Ý BẠN ĐỌC TÌM HIỂU THÊM: 

3 tips về media literacy khi tiếp cận thông tin mới trên mạng truyền thông xã hội

(1) 4 yếu tố quan trọng khi tiếp cận một thông tin mới: Relevance – Accuracy – Bias – Reliability

(2) 5 mức độ đo lường một bài viết đáng tin cậy: Likeability – Consistency – Consensus – Scare

(3) Các kỹ năng journalistic verification: cross-checking, lateral reading, plagiarism, abuse of statistics

GIÁ TRỊ CỦA HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM: KHI VIỆC HỌC KHÔNG CÒN Ở “TRONG LỚP”

By Ha Pham

Chúng ta đang sống ở Thế Giới Phẳng, nhờ vào sự cải tiến của công nghệ, việc tiếp xúc với những kiến thức của mọi người là như nhau. Tuy nhiên, đâu là sự khác biệt trong việc phát triển của mỗi cá nhân?
Với mô hình học trong một lớp đông (thường là 40 người trở lên) và đặt nặng lý thuyết, giáo dục trong trường học ở Việt Nam đôi khi còn cứng nhắc và không tạo được cảm hứng học tập cho học sinh. Việc “ngộ lý thuyết thiếu thực hành” trong môi trường giáo dục truyền thống,  mô hình Học Tập Trải Nghiệm (Experiential Learning) là một trong những hoạt động giáo dục được các nước phát triển trên thế giới áp dụng.

Vậy mô hình học tập này là gì, và nó đem lại giá trị gì còn thiếu cho việc học của học sinh Việt Nam? Cùng chúng tôi tìm hiểu trong bài viết này nha!

HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM (EXPERIENTIAL LEARNING) LÀ GÌ?

Mô hình Học Tập Trải Nghiệm (Experiential Learning) được phát triển bởi tiến sĩ David Kolb và chính thức giới thiệu lần đầu vào năm 1984 (McLeod, 2017). Mô hình học tập này được xây dựng dựa trên những lý thuyết về tâm lý học của John Dewey, Kurt Lewin, Jean Piaget và nhiều nhà khoa học về phát triển và giáo dục khác (McLeod, 2017). 

Theo tác giả Minh & Hằng (2018), Học Tập Trải Nghiệm (Experiential Learning) nghĩa là: “Học từ thực nghiệm hoặc học từ cách làm.” Giáo dục sử dụng mô hình Học Tập Trải Nghiệm đưa người học vào một trải nghiệm trực tiếp và khuyến khích suy nghĩ (phản ánh) về những trải nghiệm đó, nhằm giúp người học phát triển các kỹ năng, thái độ và cách nghĩ (Minh & Hằng, 2018).

Tiến sĩ David Kolb (1984) đã tạo ra một biểu đồ giải thích các phong cách học tập (learning style) và quá trình học tập (learning process) của mô hình này. Bài viết sẽ chỉ tập trung vào việc giải thích và nêu ví dụ về phong cách học tập (learning style).

Mô hình Hc Tp Tri Nghim ca David Kolb (1984Mô hình Hc Tp Tri Nghim ca David Kolb (1984)

Tiến sĩ Kolb (1984) cho rằng mỗi người có một phong cách học tập khác biệt cho riêng mình, chịu ảnh hưởng bởi môi trường giáo dục, tính cách, và nhiều yếu tố khách quan khác.

Có 2 trục đối xứng nhau trên biểu đồ: trục Nhận thức chuyển hóa và trục Hành động chuyển hóa. Bác Kolb nói rằng, phong cách học tập của một người sẽ luôn được tạo nên từ 2 yếu tố ở 2 trục khác nhau và không thể được tạo nên từ 2 yếu tố trên cùng một trục. Ví dụ, phong cách học tập không thể được tạo nên từ 2 yếu tố Cảm giác và Tư duy, mà sẽ được tạo nên với công thức Cảm giác Quan sát = phong cách Phân kỳ.

Sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta xây dựng phong cách học tập cho bản thân sử dụng phương thức Ma trận kép, nghĩa là kết hợp 2 ‘lựa chọn’ đối xứng nhau trên 2 trục khác biệt, giống như bảng dưới đây:

Thử nghiệm tích cực
(Làm)
Quan sát có tư duy
(Quan sát)
Trải nghiệm cụ thể
(Cảm giác)
Thích nghi
(Trải nghiệm cụ thể + Thử nghiệm)
Phân kỳ
(Trải nghiệm cụ thể + Quan sát có tư duy)
Khái niệm hóa vấn đề trừu tượng
(Tư duy)
Hội tụ
(Khái niệm hóa vấn đề trừu tượng + Thử nghiệm)
Đồng hóa
(Khái niệm hóa vấn đề trừu tượng + Quan sát có thư duy)

CÁC PHONG CÁCH CỦA MÔ HÌNH HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM – TÍNH CÁCH NGƯỜI HỌC VS PHONG CÁCH HỌC TẬP

Theo tác giả Hải Thanh (2018), phong cách học tập phù hợp nhất là phong cách được hình thành dựa trên những tính cách, thói quen và môi trường sinh sống của bản thân người đó. Vậy, từng phong cách học tập có liên quan thế nào tới tính cách của bản thân chúng ta?

PHÂN KỲ (CẢM GIÁC VÀ QUAN SÁT)

  • Những bạn mang phong cách học tập này có thể nhìn mọi thứ từ những quan điểm khác nhau. Bạn rất nhạy cảm, thích xem hơn là làm, hành động để thu thập thông tin và sử dụng trí tưởng tượng để giải quyết vấn đề. Những bạn có xu hướng chú trọng cảm giác và quan sát đặc biệt nổi trội trong việc xem xét một tình huống cụ thể dưới nhiều góc độ khác nhau.
  • Tiến sĩ Kolb gọi phong cách này là Phân kỳ, bởi những các bạn thể hiện tốt hơn trong những tình huống yêu cầu tạo ra ý tưởng, ví dụ như động não (brainstorming). Những bạn Phân kỳ quan tâm về các vấn đề văn hóa đa dạng và muốn thu thập thông tin.
  • Chưa hết, Phân kỳ còn là những người rất tình cảm và biết quan tâm tới mọi người. Những bạn này thường sẽ là người giỏi lắng nghe, và sẽ là người kết nối các thành viên trong nhóm khi làm việc cùng nhau.

ĐỒNG HÓA (SUY NGHĨ VÀ QUAN SÁT)

  • Đây chính là người chơi hệ logic của các phong cách học tập. Những bạn này sẽ cực kì nổi trội trong việc diễn đạt thông tin một cách rõ ràng, súc tích và logic. Nếu bạn mang phong cách học tập này, bạn cũng sẽ rất giỏi trong chuyện “nhặt” thông tin cần thiết từ một biển thông tin to, và sắp xếp chúng thành một danh sách dễ hiểu và logic.
  • Những bạn mang phong cách học tập này ít tập trung về những vấn đề mang tính con người, mà quan tâm nhiều hơn về các ý tưởng và khái niệm trừu tượng. Khi làm việc nhóm, đây sẽ là những bạn giúp kết nối các ý tưởng và phương pháp làm việc một cách hợp lý nhất.
  • Các bạn Đồng hóa cũng sẽ rất phù hợp với những công việc nghiên cứu khoa học, bởi bản chất việc nghiên cứu đòi hỏi rất nhiều đức tính giống với điểm mạnh của phong cách học tập này.

HỘI TỤ (SUY NGHĨ VÀ THỬ NGHIỆM)

  • Cũng giống như Đồng hóa, các bạn mang phong cách Hội tụ cũng không để tâm nhiều tới những vấn đề con người. Tuy nhiên, nếu Đồng hóa là những bạn nghiên cứu để tạo ra lý thuyết, thì Hội tụ sẽ là những người sử dụng lý thuyết đó áp dụng vào công việc trong thực tế.
  • Những bạn này đặc biệt nổi trội trong khả năng tìm kiếm ứng dụng thực tế cho các ý tưởng và lý thuyết đã học được. Đồng thời, các bạn Hội tụ cũng sẽ tỏa sáng ở những nhiệm vụ mang tính kỹ thuật cao.
  • Hơn thế nữa, phong cách học tập Hội tụ sẽ là những người tiên phong thử nghiệm những phương thức thực tế mới lạ cho một ý tưởng, lý thuyết nào đó. Trong học tập và làm việc nhóm, đây sẽ là những bạn giúp “gỡ rối” cho cả nhóm khi phương pháp làm việc ban đầu của mọi người đang không đem lại kết quả tốt.

THÍCH NGHI (CẢM GIÁC VÀ THỬ NGHIỆM)

  • Những bạn Thích nghi thích sử dụng trực giác của mình để tiếp cận vấn đề hơn là suy nghĩ logic.
  • Với những bạn mang phong cách học tập Thích nghi, bài học sẽ được tiếp thu tốt hơn bằng việc ‘thực hành’ và dùng trực giác trong việc phân tích trải nghiệm. Ví dụ như khi làm việc nhóm, những bạn Thích nghi sẽ làm tốt hơn ở những công việc mà bản thân đã có kinh nghiệm rồi, hoặc ở những công việc tạo cho các bạn một cảm giác hứng thú.
  • Ngoài ra, cũng như Hội tụ, các bạn Thích nghi có khả năng dùng thông tin lý thuyết, được tạo ra từ người khác, cho bài học của mình rất tốt. Các bạn này thích sử dụng những kiến thức được đúc kết ra từ trải nghiệm của người khác hơn là tự tạo những kiến thức đó.

HÌNH THỨC HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM ĐEM LẠI GIÁ TRỊ GÌ CHO NGƯỜI HỌC?

TÌM RA PHONG CÁCH HỌC TẬP CỦA RIÊNG MÌNH

Bằng cách trực tiếp tham gia vào những hoạt động kích hoạt cả 4 yếu tố Cảm giác, Quan sát, Tư duy và Hành động, người học được khám phá về phong cách phù hợp nhất với bản thân mình, được trao quyền trong học tập và được quyết định phương pháp học tập cho bản thân. 

TÌM RA GIÁ TRỊ CỦA VIỆC HỌC

Cũng như phong cách học tập, đối với mỗi người giá trị của việc học cũng sẽ khác nhau. Qua những trải nghiệm thực tế và hoạt động tư duy, phân tích trải nghiệm, người học được đối chiếu những gì mình học được với những giá trị mà bản thân nắm giữ, qua đó định hình được giá trị của việc học cho riêng mình.

TÌM THẤY NIỀM VUI TRONG HỌC TẬP

Biết được phong cách học phù hợp cũng như giá trị của việc học đối với bản thân, niềm vui của việc học sẽ đến một cách tự nhiên. Qua đó, động lực học tập cũng sẽ được tăng lên.

RÈN LUYỆN KHẢ NĂNG TƯ DUY PHẢN BIỆN

Liên tục ứng dụng khả năng tư duy và quan sát trong học tập là bài rèn luyện tốt nhất cho Tư duy phản biện – một trong những kỹ năng quan trọng nhất của người trẻ trong thế kỷ 21.

Hy vọng bài viết đã đưa đến một cái nhìn rõ nét hơn cho các bạn về mô hình Học Tập Trải Nghiệm.

THAM KHẢO:

  1. McLeod, S. (2017). Kolb’s Learning Styles and Experiential Learning Cycle. Retrieved 30 January 2021, from https://www.simplypsychology.org/learning-kolb.html
  2. Thanh, H. (2018). Kolb – Phong cách học tập. Retrieved 30 January 2021, from https://taogiaoduc.vn/amp/kolb-phong-cach-hoc-tap/
  3. Minh, Đ.T.N. & Hằng, N.T (2018). Học tập trải nghiệm – Lý thuyết và vận dụng vào thiết kế, tổ chức hoạt động trải nghiệm trong môn học ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số 433 (Kì 1 – 7/2018), tr 36-40.

HỌC SÂU HAY HỌC RỘNG?

By Nhat Pham

Dịch từ bài viết: Harvard lecturer: ‘No specific skill will get you ahead in the future’—but this ‘way of thinking’ will

Theo giảng viên Havard: “Không có một kỹ năng cụ thể nào sẽ giúp bạn tiến xa trong tương lai” – nhưng “cách nghĩ này” thì có thể

Chúng ta thường nghĩ rằng người có chuyên môn sâu sẽ có uy tín, thu nhập cao và liên tục được thăng tiến trong công việc. Trái lại, người biết mỗi thứ một ít thường ít được coi trọng.  Nhưng tương lai có thể sẽ rất khác: một đầu óc với đa dạng góc nhìn và có khả năng liên kết kiến thức  (người có kiến thức tổng quát – generalist) có thể sẽ trở nên quan trọng không kém so với người tạo ra kiến thức (chuyên gia – specialist)

Với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ trong một thế giới ngày càng trở nên khó đoán, lối tư duy truyền thống “một nghề cho chín còn hơn chín nghề” đã không còn hiệu quả. Thẳng thắn mà nói, thế giới đã thay đổi, nhưng triết lý phát triển kỹ năng của chúng ta thì không.

Sự phức tạp của thế giới hiện tại đòi hỏi  con người phải có khả năng vươn lên ngay cả trong những tình huống mập mờ và khó hiểu. Tình cảnh này khiến cho tất cả đều lo lắng vì chỉ có kiến thức rộng mới mang lại cảm giác an toàn hơn.

Bạn cứ thử nhìn vào mấy từ khoá  giới kinh doạnh thường dùng để khuyên nhủ mọi người trong khoảng 40 – 50 năm trở lại đây đi: năng lực cốt lõi, kỹ năng độc đáo, chuyên môn sâu. Rất nhiều người trong số chúng ta cũng từng có  thời mà chìa khóa thành công chính là phát triển chuyên môn hẹp để thăng tiến.

Ví dụ như, là một bác sĩ thì chưa đủ, người ta còn phải trở thành một bác sĩ chuyên khoa, chẳng hạn như chuyên khoa tim mạch. Nhưng rồi trở thành bác sĩ tim mạch thì cũng chưa đủ, người ta phải chuyên sâu hơn nữa, phải là phẫu thuật viên tim mạch. Và chuyện nhất nghệ tinh, nhất thân vinh này  thì không chỉ gói gọn trong ngành y  mà là ở mọi ngành nghề.

Thông điệp chuyên môn hóa này đã được nhiều thế hệ thấm nhuần. Cứ tập trung phát triển chuyên môn rồi bạn sẽ có cơ hội lên chức và kiếm được nhiều tiền hơn. Cách suy nghĩ này hiệu quả trong quá khứ. Bằng chứng là chính những lãnh đạo hiện tại của chúng ta đi lên bằng con đường này.

Người có hiểu biết rộng rãi sẽ có nhiều lợi thế trong tương lai. (photo credit: Unsplash)

TƯƠNG LAI NẰM TRONG TAY NHỮNG NGƯỜI KIẾN THỨC RỘNG

Thành quả trong khứ chẳng đảm bảo được kết quả ở tương lai là một trong những lời cảnh báo  kinh điển của các quỹ tương hỗ ở Mỹ. Thật vậy, đã tới lúc chúng ta nên nghĩ lại về việc đề cao chuyên môn hóa của mình. Dường như chúng ta đã quá mải mê “đào sâu” mà quên “mở mang” kiến thức.

Người ta hay bảo nhau rằng “Người cầm búa trong tay thì mọi thứ khác đều giống như đinh”. Nhưng nếu người đó có búa, tua vít, và cờ lê thì sao? Phải chăng họ sẽ dùng tua vít nếu đầu vít có một rảnh hẹp? Hay có thể họ sẽ nhìn đầu vít trước? Đầu tròn? Đầu lục giác? Cờ lê có thể sẽ hiệu quả hơn chăng?. Và cuối cùng, chỉ việc biết thêm những dụng cụ này cũng có thể giúp người ta hiểu rõ hơn về vấn đề cần giải quyết..

Nói như trên không có nghĩa là chuyên môn sâu thì vô dụng. Ngược lại là đằng khác. Mang theo chỉ mỗi cây  búa không phải vấn đề. Vấn đề  nằm ở chỗ thế giới đang thay đổi quá nhanh nên việc tích lũy thêm công cụ sẽ giúp con người  định hướng tốt hơn trong sự bất định. Để thành công trong thế giới hôm nay , mỗi người chúng ta phải nhanh nhẹn và linh hoạt.

TRỞ THÀNH NGƯỜI CÓ KIẾN THỨC TỔNG QUÁT NHƯ THẾ NÀO

Làm sao để đạt được mục tiêu này. Đầu tiên, chúng ta cần phóng tầm mắt ra xa và chú ý đến bức tranh toàn cảnh.

Chẳng hạn như, bạn nên đọc hết cả bài báo cáo, chứ không chỉ mỗi phần về ngành của mình. Chuyên ngành hẹp  của bạn là ngành xăng dầu? Vậy thì hãy nghiên cứu  luôn cả những yếu tố tác động đến ngành bán lẻ. Hoặc nếu bạn chuyên về tài chính, tại sao không đọc sách về marketing? Hãy nghĩ lớn và rộng hơn những gì bạn thường hay làm.

Một cách khác là suy ngẫm về tác động qua lại giữa những ngành tưởng chừng như không liên hệ gì đến nhau. Đây là thói quen của những người suy nghĩ có hệ thống. Tìm hiểu luôn cả mối tương quan giữa các ngành và thử tưởng tượng về viễn cảnh nếu như một ngành thay đổi thì các ngành khác sẽ hoạt động ra sao?

Người tổng quát có sẵn một bộ công cụ trong  tay, họ sẽ có khả năng linh hoạt chuyển đổi cách hành động của mình để bắt kịp với sự phát triển của tình hình. Bạn cứ thử nghĩ đến việc  thế giới thay đổi nhanh như thế nào khi internet và công nghệ truyền dữ liệu không dây phát triển đi. Jeff Bezos, ông chủ Amazon, không phải là một chuyên gia bán lẻ có thể dễ dàng đánh bại đối thủ . Lúc mới bắt đầu Amazon, ông chỉ là lính mới trong lĩnh vực này nhưng biết cách thích ứng linh hoạt để chớp lấy một cơ hội khổng lồ.

Bộ công cụ trong tay để chuyển đổi linh hoạt (photo credit: Unsplash)

THÀNH CÔNG TRONG SỰ NGHIỆP CHO NGƯỜI TỔNG QUÁT 

Nhà tuyển dụng thường sẽ tìm kiếm những ứng viên được luân chuyển qua nhiều phòng ban. Đây cũng là điều tối quan trọng với những công ty lớn như Google, khi mà nhân viên của họ liên tục phải nhảy từ phòng ban này sang phòng ban khác, từ vai trò này sang vai trò khác.

Lisa Stern Hayes, một trong những chuyên viên tuyển dụng cấp cao của Google, đã chia sẻ trong một podcast rằng công ty này rất coi trọng những người biết giải quyết vấn đề, sở hữu “năng lực tư duy phổ quát” thay vì kiến thức chuyên sâu.

Lisa giải thích “Bạn cứ nghĩ về tốc độ tăng trưởng của Google đi. Nếu như bạn chỉ thuê một ai đó cho một vị trí cụ thể. Nhưng rồi công ty lại có nhu cầu khác, thì ta lại phải đảm bảo rằng có một công việc nào khác họ có thể làm được tại Google. Vậy tốt hơn hết là thuê những người đa nhiệm thông minh.”

Nếu bạn mới gia nhập thị trường lao động, thì lời khuyên của tôi là hãy lên kế hoạch để được trải nghiệm những môi trường đa văn hóa và đa vị trí. Kỹ năng phân tích bạn phát triển (chẳng hạn như kỹ năng thống kê cơ bản hay tư duy biện luận) trong quá trình này sẽ đáng giá hơn khi cạnh tranh với những ứng viên khác chỉ có kỹ năng chuyên môn hẹp.

Điều duy nhất ta có thể chắc chắn về tương lai đó là sự không chắc chắn. Sự phát triển của trí thông minh nhân tạo và các đột phá công nghệ đã biến thông tin trở thành hàng hóa. Và khi ấy kỹ năng tạo ra thông tin sẽ dần mất giá trị. Thay vào đó, kỹ năng quan trọng của tương lai thực ra lại không phải là kỹ năng; mà nó là cách tiếp cận, một triết lý, một cách nghĩ – và quan trọng hơn hết là bạn ứng dụng cách nghĩ này sớm nhất khi có thể.

DIGITAL LITERACY – TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT SỐ

Trong bài viết 10 Kỹ năng cần thiết trong tương lai chúng tôi đã chia sẻ trước đó, sử dụng và phát triển công nghệ, cụ thể là Digital literacy – trình độ kỹ thuật số là một trong nhóm bốn loại kỹ năng cần thiết nên được trang bị để bạn ghi điểm trong mắt nhà tuyển dụng. Là thế hệ GenZ, bên cạnh việc tiếp thu kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng giao tiếp, nâng cao năng lực ngoại ngữ, bạn làm thế nào để bắt kịp những công nghệ mới hay bạn biết gì về trình độ kỹ thuật số, liệu có phải chỉ dừng lại ở khả năng sử dụng máy vi tính, các phần mềm tin học như Microsoft Word hay PowerPoint? Cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết này nhé!

ĐỊNH NGHĨA

Theo tài liệu “A Global Framework of Reference on Digital Literacy Skills for Indicator 4.4.2” của UNESCO, trình độ kỹ thuật số là khả năng truy cập, quản lý, hiểu, tích hợp, giao tiếp, đánh giá và tạo ra thông tin một cách an toàn và thích hợp thông qua các công nghệ kỹ thuật số đối với công việc và doanh nghiệp khởi nghiệp. Trong đó bao gồm các năng lực được gọi chung là trình độ tin học, trình độ công nghệ thông tin, hiểu biết về thông tin và hiểu biết về phương tiện truyền thông. [1]

Nói cách khác, trình độ kỹ thuật số là việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông một cách tự tin, có cân nhắc kỹ lưỡng và sáng tạo để đạt được các mục đích liên quan đến công việc, học tập, giải trí, hoà nhập và/ hoặc tham gia vào xã hội. [2]

TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT SỐ TRONG GIÁO DỤC VIỆT NAM

Ví dụ điển hình về trình độ kỹ thuật số trong giáo dục Việt Nam, đặc biệt ở giai đoạn giãn cách xã hội vì dịch Covid-19 được thể hiện qua việc dạy và học trực tuyến. Trong buổi tọa đàm Tương lai của giáo dục trực tuyến tại Việt Nam, PGS. TS Nguyễn Ngọc Vũ – Phó hiệu trưởng trường Đại học Hoa Sen đã chia sẻ: “Có một số trở ngại đáng cân nhắc để chuyển đổi số thành công. Đó là trình độ kỹ thuật số (digital literacy) của học sinh và giáo viên, khả năng đồng bộ hoá các tính năng trên cùng một nền tảng, khả năng tự chủ của học sinh, cũng như khả năng kiểm soát lớp học online của giáo viên. [3] 

Cùng về chủ đề học trực tuyến, ở buổi tọa đàm Chuyển đổi kỹ năng số ở Việt Nam [4] các diễn giả đã chia sẻ tình hình chung về trình độ kỹ thuật số của học sinh Việt Nam từ những nghiên cứu thực tế. Do đại dịch COVID-19, giáo dục cần chuyển sang hình thức trực tuyến và điều này đã bộc lộ nhiều lỗ hổng:

  • Hầu hết những trẻ sống ở các vùng sâu vùng xa ít có cơ hội được tiếp cận và học tập trên nền tảng kỹ thuật số; 
  • Nhiều học sinh thiếu truy cập internet, không có thiết bị và hiểu biết không đầy đủ về kỹ thuật số; 
  • Giáo viên phần lớn không quen với công nghệ mới và chưa được đào tạo đầy đủ để sử dụng hiệu quả các công cụ mới này;
  • Thanh thiếu niên Việt Nam nhận thức được rằng kiến thức về kỹ thuật số có vai trò quan trọng cho tương lai của mình nhưng không phải tất cả đều cho rằng mình được trang bị đủ kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực này;
  • Những thanh thiếu niên khuyết tật, sống ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và dân tộc thiểu số không có chung nhận thức về giáo dục kỹ thuật số như các bạn cùng trang lứa.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ “NÂNG CẤP” TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT SỐ 

Là những người trẻ, tinh thần chủ động học hỏi và biết tận dụng mọi nguồn lực đang có chính là công thức tối ưu giúp bạn thăng hạng cho trình độ kỹ thuật số của bản thân. Trong một bài viết trên trang web của ĐH Rasmussen, tác giả Megan Ruesink đã liệt kê ra 5 cách giúp bạn phát triển trình độ kỹ thuật số của mình. Tác giả đã mách nhỏ: “Cũng giống như học một ngôn ngữ nói, một trong những cách tốt nhất để thông thạo là đắm mình vào nó”. [5]

1. CÁC KỸ NĂNG MÁY TÍNH CƠ BẢN

  • Viết email là một trong những kỹ năng bạn cần chú ý rèn giũa; 
  • Hiểu biết về các lệnh trên bàn phím sẽ giúp bạn cải thiện trình độ kỹ thuật số của bản thân; 
  • Sử dụng Prezi thay vì PowerPoint nhằm nâng cao hiệu suất và có một bài thuyết trình ấn tượng trước các giảng viên và đồng nghiệp.

2. KỸ NĂNG SỬ DỤNG MÁY TÍNH / CÔNG NGHỆ NÂNG CAO

Giống như các kỹ năng khác, bạn có thể chinh phục được những kỹ năng này nếu có công cụ phù hợp và ý chí tìm tòi học hỏi.

  • Làm quen với lập trình không còn khó vì hiện nay có rất nhiều trang web dạy lập trình cơ bản miễn phí. Ví dụ như codecademy;
  • Máy tính của bạn đang chậm dần sau thời gian dài sử dụng, nhưng chuyện đó có thể được giải quyết nếu bạn biết cách nâng cấp bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM). 

3. AN TOÀN TRỰC TUYẾN

Hãy đặc biệt chú ý bảo vệ máy tính của bạn và bảo mật thông tin cá nhân bằng cách tìm hiểu những cách sau đây:

  • Bảo vệ máy tính của bạn khỏi virus;
  • Mã hóa ổ cứng của bạn. 

4. ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG

Bạn cần biết cách xác định xem một bài báo hoặc trang web có đáng tin cậy hay không và cần lưu ý hơn nữa nếu những nguồn thông tin đó dùng cho công việc hay nghiên cứu khoa học.

Google Safe Browser là một công cụ hữu ích để biết trang web có an toàn hay không. Nhập “http://google.com/safebrowsing/diagnostic? site =” trước địa chỉ trang web mà bạn sẽ truy cập để kiểm tra.

5. TÌM KIẾM VIỆC LÀM TRỰC TUYẾN

Bạn có thể tìm được việc làm tốt nếu có chút bí quyết và tận dụng đúng nguồn lực hỗ trợ.

  • Sử dụng các trang web tuyển dụng trực tuyến như Glints, Vietnamworks, Careerbuilder. Bạn nên kiểm tra độ tin cậy của nhà tuyển dụng tiềm năng trước khi đăng tải CV;
  • Tìm kiếm các doanh nghiệp trong lĩnh vực bạn quan tâm và cập nhật các bài đăng tuyển dụng trên trang web của họ;
  • Kết nối với các nhà tuyển dụng tiềm năng trên LinkedIn và theo dõi các công ty cùng lĩnh vực để thể hiện sự quan tâm của bạn;

Thế giới liên tục biến đổi, sự phát triển của khoa học công nghệ có thể giúp con người sống sung túc tiện nghi hơn nhưng kèm theo đó là những rủi ro, thiên tai hay dịch bệnh cũng có thể đặt con người vào tình thế khó khăn và bắt buộc họ không ngừng tìm tòi học hỏi để thích nghi và bắt kịp với chúng. Thế hệ GenZ hội tụ đủ điều kiện để tự mình trau dồi kiến thức và nâng cao những kỹ năng để hòa nhịp cùng làn sóng thay đổi ấy cũng như giúp đỡ cộng đồng vượt qua khó khăn mà họ chưa đủ khả năng khắc phục. Tiếp tục theo dõi các bài viết từ chúng tôi để nắm bắt cho mình nhiều cơ hội trải nghiệm thú vị nhé!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Law, N., Woo, D., de la Torre, J., & Wong, G. (2018). A global framework of reference on digital literacy skills for indicator 4.4. 2. UNESCO Institute for Statistics (UIS/2018/ICT/IP/51).

[2] Mô hình và khung kiến thức số. Khai thác ngày 05/03/2021 từ https://nlv.gov.vn/nghiep-vu-thu-vien/mo-hinh-va-khung-kien-thuc-so.html

[3] Tương lai giáo dục Việt Nam làm sao để phát triển bền vững? Khai thác ngày 27/02/2021 từ https://vietcetera.com/vn/tuong-lai-giao-duc-truc-tuyen-viet-nam-lam-sao-de-phat-trien-ben-vung?fbclid=IwAR1VWGOXErjvna8uAsv_tpUQBNL-nM1WV3Z2k1jWXuFtS5hruM_uYP9PJ7A

[4] Tọa đàm: Chuyển đổi kỹ năng số ở Việt Nam. Khai thác ngày 27/02/2021 từ  https://www.unicef.org/vietnam/vi/th%C3%B4ng-c%C3%A1o-b%C3%A1o-ch%C3%AD/t%E1%BB%8Da-%C4%91%C3%A0m-chuy%E1%BB%83n-%C4%91%E1%BB%95i-k%E1%BB%B9-n%C4%83ng-s%E1%BB%91-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam

[5] 5 ways to develop your digital literacy skills. Retrieved from https://www.rasmussen.edu/student-experience/college-life/ways-to-develop-digital-literacy-skills/

Tác giả: Thảo Lưu

THÔNG HIỂU TRUYỀN THÔNG – P2: CÁC DẠNG THÔNG TIN SAI LỆCH

Trong phần 1 của loạt bài viết cung cấp kiến thức về Thông Hiểu Truyền Thông (Media Literacy), STEP đã cùng các bạn tìm hiểu lịch sử, định nghĩa cũng như những ví dụ chân thực trong đời sống thường ngày của cụm từ này. Ngoài ra, chúng ta cũng đã hiểu được lý do vì sao kỹ năng Thông Hiểu Truyền Thông (Media Literacy Understanding) lại trở thành một trong những kỹ năng quan trọng nhất của thế hệ trẻ Gen Z hiện nay. 

Trong phần 2 của loạt bài này, STEP sẽ cùng các bạn đào sâu hơn về những gì cần biết cũng như phương pháp giúp bạn cải thiện kỹ năng Thông Hiểu Truyền Thông của bản thân.

Cụ thể, trong bài viết này, STEP sẽ giải thích lịch sử, định nghĩa và ví dụ của 3 chiếc “bẫy” thông tin. Việc nhận biết và tránh những chiếc “bẫy” này khi tham gia trao đổi thông tin ở mạng lưới truyền thông hiện nay cũng là một điều trung tâm và tiên quyết trong kỹ năng Thông Hiểu Truyền Thông. 

1. ĐỊNH NGHĨA

Dưới tán ô của Thông Hiểu Truyền Thông (Media Literacy), có 3 cụm từ chính miêu tả những “bẫy” thông tin thường thấy trên mạng lưới thông tin:

  • Thông Tin Sai Lệch (Misinformation)
  • Thông Tin Đánh Lạc Hướng (Disinformation)
  • Tuyên Truyền Định Hướng (Propaganda)

Theo Handbook (Sổ tay) hướng dẫn việc xây dựng chương trình Giáo Dục và Đào Tạo ngành Báo Chí của UNESCO, Thông Tin Sai Lệch (Misinformation) được định nghĩa là: thông tin không chính xác về một sự việc/sự vật/con người, nhưng không được tạo ra với mục đích gây hại; Thông Tin Đánh Lạc Hướng (Disinformation) nghĩa là: thông tin không chính xác và được chủ đích tạo ra nhằm gây hại cho một người, tổ chức hay một đất nước;  và Tuyên Truyền Định Hướng (Propaganda): thông tin được đưa ra với mục đích định hướng thái độ, suy nghĩ, tâm lý và ý kiến cá nhân của một bộ phận quần chúng lớn theo chiều hướng mà người cung cấp thông tin mong muốn. 

Thông tin gi Ngun: Internet

2. LỊCH SỬ:

Từ xa xưa, việc trao đổi thông tin đã được con người phát triển thành một hệ thống truyền thông. Hệ thống này ngày càng trở nên phức tạp và thay đổi theo dòng lịch sử. 

THÔNG TIN ĐÁNH LẠC HƯỚNG (DISINFORMATION) VÀ TUYÊN TRUYỀN ĐỊNH HƯỚNG (PROPAGANDA)

Theo Posetti và Matthews (2018), những loại thông tin sai lệch hay mang tính định hướng đã xuất hiện từ năm Circa 44 BC (trước Công Nguyên), tức hơn 2000 năm trước đây. Vào lúc đó, Mark Antony – một chính trị gia người Hy Lạp Cổ Đại bị những người chống đối đảng của ông – hội Octavian bôi nhọ danh tiếng bằng cách khắc lên đồng xu những câu slogan sai lệch về Antony.

Trải qua hơn 1000 năm sau, những loại thông tin này lại được sử dụng rộng rãi và trở nên thông dụng ở Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918) và cả Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945). Những thông tin mang tính Tuyên Truyền Định Hướng (Propaganda) được sử dụng rất nhiều cho mục đích chiêu mộ binh lính, thúc đẩy sự thù ghét đối phương nhằm hợp thức hóa chiến tranh thời bấy giờ. 

CHIẾN TRANH – VÙNG ĐẤT MÀU MỠ CHO THÔNG TIN ĐÁNH LẠC HƯỚNG

Tm dch: Bn s chiến đu ngay bây gi hay đi đến khi Chuyn Này xy ra?

Những hình ảnh mang tính thù ghét, gieo rắc nỗi sợ và hiềm khích với đối phương được sử dụng phổ biến nhằm kích động tinh thần chiến đấu của binh lính và động viên những thanh niên trẻ tham gia chiến trận . Tuy nhiên, những hình ảnh hoặc thông tin này được tạo ra không hề dựa trên sự thật hay từ lời nói của ai, mà hoàn toàn là những thông tin bịa đặt, không chính xác nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị cụ thể.

Như vậy, chúng ta có thể thấy chiến tranh là một vùng đất màu mỡ cho những thông tin đánh lạc hướng và thông tin mang tính tuyên truyền định hướng, được tạo ra với mục đích phục vụ cho cuộc chiến, để hợp thức hóa cũng như hợp lý hóa chiến tranh trong lòng nhân dân các nước châu Âu và Mỹ thời bấy giờ.

Nói cách khác, mục đích của Thông Tin Đánh Lạc Hướng (Disinformation) và Tuyên Truyền Định Hướng (Propaganda) là: tạo ra những thông tin không đúng sự thật nhằm mục đích bôi nhọ một đối tượng, và định hướng tâm lý quần chúng theo hướng tiêu cực về đối tượng đó (có thể mang tính chính trị hoặc không).

THÔNG TIN SAI LỆCH (MISINFORMATION)

Tuy nhiên, Thông Tin Sai Lệch (Misinformation), theo chiều dọc lịch sử, lại không phổ biến trong những cuộc chiến. Vùng đất màu mỡ của Thông Tin Sai Lệch (Misinformation) là những lĩnh vực mang tính quảng cáo, phục vụ mục tiêu mang tính kinh tế, lợi nhuận hơn là những mục tiêu chính trị. 

Một ví dụ điển hình của vùng đất nơi những dạng thông tin này có thể được tìm thấy là những quảng cáo, poster nằm trong danh mục Sản Phẩm Ăn Kiêng (Diet Product). Trong bản báo cáo mới nhất về Quản lý Thị trường Giảm Cân và Ăn Kiêng ở Mỹ vào năm 2019, ngành Kinh Tế Ăn Kiêng (Diet Industry) đã trở thành một ngành kinh tế trị giá 72 tỷ Đô la Mỹ ở quốc gia này.

THÔNG TIN SAI LỆCH TRONG VĂN HÓA ĂN KIÊNG (DIET CULTURE)

Với đời sống về vật chất và tinh thần ngày càng tăng, nhu cầu cải thiện và sự quan tâm về sức khỏe của con người cũng ngày càng tăng theo. Lợi dụng tâm lý đám đông về sức khỏe, nhiều dạng Thông Tin Sai Lệch (Misinformation) được đưa ra nhằm mục đích kích thích tiêu dùng, tăng doanh thu bán hàng của bất kỳ loại sản phẩm nào liên quan tới ăn kiêng hoặc giảm cân. Không chỉ dừng lại ở đó, những sản phẩm tưởng như được liệt vào danh sách cần tránh khi ăn kiêng như đường, cũng được thương mại hóa theo một hướng tích cực về chuyện giảm cân nhằm kích thích tiêu dùng.

Tm dch: Đường có th tr thành sc mnh tinh thn bn cn đ ăn ít đi

Những thông tin thế này không mang tính thù địch hay bôi nhọ một chủ thể nào, nhưng việc tiếp nhận những thông tin này sẽ dẫn đến những hành động sai lệch. Ví dụ như việc ăn đồ ngọt nhiều hơn vào lúc cần giảm cân.

Sự ra đời của Internet vào thế kỷ 20 và Mạng xã hội vào thế kỷ 21 đã đặt tiền đề cho một cuộc Khủng Hoảng Tin Giả (Fake News Crisis) của xã hội nói chung và ngành Báo chí, Truyền thông nói riêng ở thế kỷ 21.

Tuy nhiên, sau khi Internet (1983) và Mạng xã hội (1997) ra đời, chiến tranh không còn là vùng đất độc quyền những dạng thông tin này. Tốc độ phủ sóng kèm với sự phát triển công nghệ nhanh chóng đã biến Internet và sau này là Mạng xã hội trở thành vùng đất chính của Thông Tin Sai Lệch (Misinformation), Thông Tin Đánh Lạc Hướng (Disinformation) và Tuyên Truyền Định Hướng (Propaganda).

Posetti và Matthews (2018), trong Bản Hướng Dẫn Ngắn về Lịch sử của Tin Giả và Thông Tin Đánh Lạc Hướng (A Short Guide to History of Fake News and Disinformation) đã nhận định rằng, sự ra đời của Internet vào thế kỷ 20 và Mạng xã hội vào thế kỷ 21 đã đặt tiền đề cho một cuộc Khủng Hoảng Tin Giả (Fake News Crisis) của xã hội nói chung và ngành Báo chí, Truyền thông nói riêng ở thế kỷ 21. 

3. BẢNG SO SÁNH, TỔNG KẾT SỰ GIỐNG/KHÁC NHAU GIỮA MISINFORMATION – DISINFORMATION – PROPAGANDA

Sau khi nhìn lại lịch sử của 3 loại thông tin trên, STEP hy vọng các bạn đã có một cái nhìn bao quát và hiểu biết hơn về tính chất cũng như mục đích của chúng.

Thông Tin Sai Lệch (Misinformation)Thông Tin Đánh Lạc Hướng (Disinformation)Tuyên Truyền Định Hướng (Propaganda)
Giống nhauĐều là những thông tin không chính xác, không đúng sự thật và không có bằng chứng khoa học.
Khác nhauĐược tạo ra không với mục đích bôi nhọ, gây tổn thất cho một chủ thể hay tổ chức nào.Được tạo ra với mục đích bôi nhọ, gây tổn thất cho một hay nhiều chủ thể/tổ chức.Được tạo ra với mục đích định hướng, lái tâm lý quần chúng theo hướng người tạo ra thông tin mong muốn. Thường được sử dụng với mục đích chính trị.

THAM KHẢO:

  1. Posetti, J. and Matthews, A., 2018. A Short Guide To The History Of ‘Fake News’ And Disinformation: A New ICFJ Learning Module. [online] International Center for Journalists. Available at: <https://www.icfj.org/news/short-guide-history-fake-news-and-disinformation-new-icfj-learning-module> [Accessed 22 December 2020].
  2. UNESCO. 2020. Journalism, ‘Fake News’ And Disinformation: A Handbook For Journalism Education And Training. [online] Available at: <https://en.unesco.org/fightfakenews> [Accessed 22 December 2020].
  3. Markets, R., 2020. United States Weight Loss & Diet Control Market Report 2019: 2018 Results & 2019-2023 Forecasts – Top Competitors Ranking With 30-Year Revenue Analysis. [online] Prnewswire.com. Available at: <https://www.prnewswire.com/news-releases/united-states-weight-loss–diet-control-market-report-2019-2018-results–2019-2023-forecasts—top-competitors-ranking-with-30-year-revenue-analysis-300803186.html#:~:text=The%20U.S.%20weight%20loss%20market,use%20free%20diet%20%26%20fitness%20apps.> [Accessed 22 December 2020].
  4. Henderson, G. and Braun, M., 2016. Propaganda And Rhetoric In Democracy. [online] Google Books. Available at: <https://books.google.co.jp/books?hl=vi&lr=&id=KodkDQAAQBAJ&oi=fnd&pg=PA118&dq=propaganda+definitions&ots=P5XuU5jrFr&sig=t_RIMAddZpFLByMBJeWDORE4VPQ&redir_esc=y#v=onepage&q=propaganda%20definitions&f=false> [Accessed 22 December 2020].

HỌC NHIỀU NGOẠI NGỮ, TẠI SAO KHÔNG?

Thao Luu

Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong hầu hết các hoạt động của con người từ học tập, làm việc, nghiên cứu, cho đến giải trí, giao tiếp, v.v…. là công cụ để truyền tải và lưu trữ mọi thông tin, vì vậy mà nó song hành và đóng góp cho sự phát triển không ngừng của tất cả lĩnh vực trên thế giới. Theo thống kê mới nhất từ trang Ngôn ngữ của thế giới Ethnologue, hiện nay có 7117 ngôn ngữ đang được nói trên thế giới [1], trong mỗi ngôn ngữ lại lưu giữ lượng thông tin khổng lồ về văn hóa, lịch sử, kinh tế, xã hội,v.v… của quốc gia sử dụng ngôn ngữ đó.

Vậy, đứng trước sự thay đổi không ngừng của các vấn đề toàn cầu về kinh tế, xã hội, môi trường, giáo dục, công nghệ,v.v… con người làm thế nào để cập nhật, hiểu biết và thích ứng với lượng thông tin khổng lồ ấy? Và liệu rằng tiếng Anh – được xem là ngôn ngữ toàn cầu, có phải là chìa khóa vạn năng giúp con người đạt được điều trên? Học nhiều ngoại ngữ và trở thành người có khả năng đa ngôn ngữ cho phép con người dễ dàng tiếp cận với lượng kiến thức vô tận, từ đó mở rộng vốn hiểu biết của mình và dễ dàng thích nghi với sự thay đổi trong môi trường sống, đặc biệt trong thời đại công nghệ liên tục được cải tiến như hiện nay. 

NGUỒN GỐC VÀ ĐỊNH NGHĨA ĐA NGÔN NGỮ (MULTILINGUALISM)

Theo những dẫn chứng trong tài liệu The Impact of Multilingualism on Global Education and Language Learning [2], chủ nghĩa đa ngôn ngữ đã xuất hiện trong thời Hy Lạp, Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở đế chế Đông La Mã, luật pháp và các văn bản hành chính thường xuyên được dịch từ tiếng Latinh sang tiếng Hy Lạp. Việc sử dụng cả tiếng Latinh và Hy Lạp là đặc trưng của giới tinh hoa trí thức La Mã và Hy Lạp. Cả hai ngôn ngữ này đều được các quan chức chính phủ và Giáo hội tích cực sử dụng trong thế kỷ thứ 5.

Theo Giáo sư ngôn ngữ học Richard Nordquist, đa ngôn ngữ được định nghĩa là khả năng giao tiếp hiệu quả bằng ba ngôn ngữ trở lên của một cá nhân hoặc một cộng đồng nào đó. [3]

ĐA NGÔN NGỮ TRONG CUỘC SỐNG NGÀY NAY

Trong bài viết về đa ngôn ngữ của Viện Goethe, tác giả cho biết, hàng năm có nhiều người chuyển đến Đức từ các quốc gia khác. Hơn 20% dân số ở Đức đến từ những nền văn hóa khác nhau. Nhiều người trong số đó có khả năng đa ngôn ngữ, họ không chỉ nói tiếng mẹ đẻ mà còn có thể sử dụng được một hoặc nhiều ngôn ngữ khác. Ngoài ra, nhiều người sau khi chuyển đến Đức, đã học tiếng Đức như một ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ thứ hai. [4]

Còn ở Singapore – quốc gia đa tộc người, ba tộc người Hoa, Mã Lai và Ấn Độ chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng dân số, mỗi tộc người sử dụng ngôn ngữ riêng của họ, đồng thời mỗi ngôn ngữ cũng có nhiều biến thể khác nhau. Chính phủ Singapore cho rằng, đa ngôn ngữ giữ vị thế đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn sự đa dạng văn hóa và tạo động lực phát triển kinh tế. Chính vì vậy, họ đã đưa ra nhiều chính sách nhằm giữ gìn và thúc đẩy sự phát triển đa ngôn ngữ trong cộng đồng dân cư. Cùng với tiếng Anh, Chính phủ Singapore thúc đẩy sử dụng tiếng phổ thông Hán ngữ, Mã Lai và Tamil nhằm giữ gìn văn hóa và di sản của ba dân tộc chính, giúp duy trì và xác định bản sắc quốc gia. [5] 

Ở cơ quan liên chính phủ hàng đầu thế giới – Liên Hợp Quốc, có 6 ngôn ngữ được sử dụng chính thức trong trao đổi chuyên môn hàng ngày: Tiếng Ả Rập, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. Văn hóa này có tầm quan trọng đặc biệt đối với Liên Hợp Quốc. Đây là nhân tố thúc đẩy lòng kiên nhẫn, sự thấu hiểu, đảm bảo sự tham gia của tất cả mọi người vào công việc chung của tổ chức để đạt được kết quả tốt hơn. [6]

LÝ DO NÊN HỌC NHIỀU NGOẠI NGỮ VÀ TRỞ THÀNH NGƯỜI ĐA NGÔN NGỮ

Những nghiên cứu học thuật, số liệu thống kê về sự hiện diện của đa ngôn ngữ trong các cơ quan, tổ chức quốc tế, các quốc gia, đã chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của đa ngôn ngữ trong đời sống của con người từ xa xưa đến hiện đại. Sự ra đời của nhiều hiệp định hợp tác quốc tế khiến việc giao lưu giữa các quốc gia rộng mở hơn trước, do đó ngày càng nhiều người đi học, đi làm, định cư ở nước ngoài và họ cần ngoại ngữ để làm cầu nối với con người và nền văn hóa ở đất nước mới.

  • Linh hoạt và tập trung hơn trong cuộc sống hàng ngày 

Đa ngôn ngữ thúc đẩy tính linh hoạt của con người, do đó họ có thể chuyển đổi giữa các công việc hiệu quả hơn. Ngoài ra, khả năng đa ngôn ngữ còn giúp con người dễ dàng bỏ qua các yếu tố gây xao nhãng và nâng cao khả năng tập trung. [7]

  • Đa ngôn ngữ làm tăng hiệu quả của não bộ

Về lâu dài, đa ngôn ngữ giúp cải thiện hiệu quả của não bộ vì nó củng cố cấu trúc và kết nối hai bán cầu não. Đa ngôn ngữ cũng giúp các quá trình suy thoái liên quan đến tuổi tác diễn ra chậm hơn. [7]

  • Học ngôn ngữ mới nhanh hơn thông qua đa ngôn ngữ

Những người đa ngôn ngữ cảm thấy dễ dàng hơn khi học ngôn ngữ mới vì họ có thể sử dụng các chiến lược ngôn ngữ khác nhau. Điều này giúp họ nhạy bén hơn khi tiếp thu thông tin từ ngôn ngữ mới, dễ dàng tìm kiếm các từ, cấu trúc câu quen thuộc và hiểu các quy tắc ngữ pháp. [7]

  • Dễ thích nghi khi sinh sống ở một đất nước khác

Có lẽ lợi thế rõ ràng nhất của đa ngôn ngữ là khả năng giao tiếp với những người từ các quốc gia khác mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Trong một số trường hợp có thể sử dụng ngôn ngữ cơ thể hoặc ngôn ngữ trung gian là tiếng Anh, nhưng với việc gắn bó và sinh sống trong khoảng thời gian dài tại một đất nước mới, có khả năng giao tiếp với người bản địa bằng ngôn ngữ của họ, bạn sẽ thích nghi tốt hơn và nhận được nhiều thiện cảm hơn. [7]

  • Đa ngôn ngữ giúp bạn mở ra nhiều cánh cửa cơ hội

Đa ngôn ngữ giúp bạn hiểu các nền văn hóa nước ngoài tốt hơn và trải nghiệm chúng một cách sâu sắc hơn. Điều này giúp bạn làm quen với những người bạn mới ở vùng lãnh thổ khác, mở rộng mạng lưới bạn bè ra quốc tế. [7]

Tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ của toàn cầu, vì vậy việc thành thạo ngôn ngữ này là một điều cần thiết trong xã hội ngày nay. Dù vậy, việc biết thêm nhiều ngoại ngữ ngoài tiếng Anh và ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ là một điểm cộng giúp bạn trở thành ứng viên sáng giá trong mắt các tập đoàn đa quốc gia, tổ chức quốc tế. Có khả năng sử dụng thêm một ngôn ngữ, bạn sẽ có thêm cơ hội hiểu biết thêm về một nền văn hóa, làm giàu vốn kiến thức chuyên môn của mình, đám mây lưu trữ của chính bạn sẽ ngày một lớn hơn, hiểu biết sâu rộng hơn và điều đó sẽ giúp bạn không bị bỏ lại trong bối cảnh khi mà các quốc gia trên thế giới đang ngày càng hội nhập hóa như hiện nay. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] How many languages

https://www.ethnologue.com/guides/how-many-languages

[2] Lid King. (2017). The Impact of Multilingualism on Global Education and Language Learning, 9 https://assets.cambridgeenglish.org/research/perspectives-multilingualism.pdf

[3] What Is Multilingualism?

https://www.thoughtco.com/what-is-multilingualism

[4] Mehrsprachigkeit

https://www.goethe.de/prj/mwd/de/idl/fam/msk.html

[5] Nguồn lực ngôn ngữ trong sự phát triển của Singapore https://tcnn.vn/news/detail/41057/Nguo_n_lu_c_ngon_ngu_trong_su_pha_t_trie_n_cu_a_Singaporeall.html

[6] Multilingualism

https://www.un.org/sg/en/multilingualism/index.shtml

[7] 5 Gründe für Mehrsprachigkeit

https://www.jicki.de/5-gruende-fuer-mehrsprachigkeit/

Tác giả: Thảo Lưu

KHÁM PHÁ PUBLIC SPEAKING BẰNG CÔNG CỤ DỮ LIỆU LỚN

By Nhat Pham

Sinh viên trong lớp giao tiếp chiến lược thường hỏi tôi cách để trở thành một người giao tiếp giỏi và thu hút hơn. Câu hỏi này hoàn toàn không mới vì nó  đã được các nhà hùng biện từ thời Hy Lạp cổ đại khám phá. Tuy vậy, khác với Cicero hay Aristotle, giờ đây chúng ta có các công cụ dữ liệu lớn (big data) và các kỹ thuật học máy (machine-learning) để tìm ra các đặc điểm cốt lõi của một diễn thuyết gia hiệu quả.

Một trong những cá nhân đang tận dụng những công nghệ này (đồng thời là một troong những giảng viên thỉnh giảng nổi tiếng nhất của tôi) là Noah Zandan, sáng lập viên và đồng thời là giám đốc điều hành của Quantified Communications, một nền tảng phân tích cung cấp các giải pháp để đo lường, đánh giá, và cải thiện khả năng giao tiếp của các các lãnh đạo doanh nghiệp.

Nhóm các nhà khoa học dữ liệu của Zandan đã phân tích hơn 100,000 bài thuyết trình từ các lãnh đạo doanh nghiệp, chính trị gia, và các diễn giả. Họ nghiên cứu tất cả các đặc tính từ cách dùng từ và cách nhấn giọng cho đến biểu cảm và tần suất các cử chỉ rồi  dùng dữ liệu này để đánh giá và xếp hạng các yếu tố quan trọng trong giao tiếp như: tính thuyết phục, sự tự tin, sự ấm áp, và  tính rõ ràng.

Zandan dùng khung lý thuyết giao tiếp của nhà tâm lý học Albert Mehrabian để làm nền tảng cho các phân tích tại công ty của mình. Anh và nhóm của mình mở rộng “3 chữ V” (verbal, vocal, visual choices – ngôn từ, ngôn thanh, và lựa chọn các phương tiện nhìn) của Mehrabian bằng cách thêm chữ V thứ tư: vital elements of communication (những yếu tố then chốt trong giao tiếp).

Dưới đây là những gì nhóm của Zandan đã tìm được khi nghiên cứu những người giao tiếp giỏi nhất kết hợp với những khái niệm tôi đã dạy trong lớp của mình.

Chân dung Noah Zandan (nguồn: https://www.noahzandan.com/about)

NGÔN TỪ

Từ ngữ bạn dùng, dù trong văn nói hay văn viết, đều quan trọng. Zandan và các đồng sự của mình khám phá ra rằng ngôn ngữ sử dụng trong các hội nghị báo cáo tài chính trực tuyến (corporate earnings calls) ảnh hưởng đến 2,5% biến động giá cổ phiếu. Dựa trên dữ liệu từ những diễn giả thành công nhất, bên dưới là ba thứ bạn có thể ghi nhớ.

Thứ nhất, cách dùng từ nên phù hợp với đối tượng khán giả và tương thích với bối cảnh của bài nói (ví dụ như bối cảnh trịnh trọng). Dùng nhiều thuật ngữ chuyên môn dường như sẽ làm khán giả của bạn khó hiểu . Cách giải quyết  tốt nhất là luôn dành thời gian để định nghĩa các thuật ngữ mà khán giả có thể chưa biết. Nhờ ai đó kiểm tra nội dung bài nói một cách chi tiết để chắc rằng những lựa chọn từ ngữ của bạn là đúng đắn cũng là một điều nên làm

Thứ hai, tránh dùng ngôn ngữ rào (hedging language). Lượng từ như “khá là” hay kiểu ngôn ngữ chần chừ như “tôi nghĩ” có thể có lợi trong giao tiếp hằng ngày, vì nó mời người nghe đóng góp cũng như điều chỉnh vị thế của bạn so với họ. Nhưng trong bối  cảnh của một bài nói trước công chúng, nó có thể làm giảm uy tín của bạn. Bạn sẽ trông tự tin hơn khi loại bỏ lượng từ và nói “Tôi cảm thấy” hay “Tôi tin.” Cách tốt nhất để bạn tự để ý tới tần suất sử dụng ngôn ngữ rào của mình là nhờ một đồng nghiệp thân thiết ra hiệu khi bạn đang tập dượt. Một khi đã nhận ra điều này, bạn sẽ có thể chủ động loại bỏ kiểu ngôn ngữ này.

Cuối cùng, một điều quan trọng khác là cần nói rõ ràng và ngắn gọn . Các nghiên cứu chỉ ra g rằng các thông điệp súc  tích sẽ dễ nhớ hơn. Zandan và các cộng sự nhận thấy thông điệp của những diễn giả hiệu quả thường ngắn gọn hơn thông điệp của những diễn giả trung bình hoặc dưới trung bình. Nhiều diễn giả nói như thể họ đang viết: dùng câu phức với nhiều mệnh đề và cụm từ được lồng vào nhau. Cách này hiệu quả trong văn viết, nhưng sẽ khó để nói và khó để khán giả theo dõi khi bạn thuyết trình. Khi viết, ta không phải nghĩ đến việc dừng lại để lấy hơi, cũng không phải lo về người đọc có thể hiểu những gì ta viết hay không vì họ luôn có thể đọc lại những đoạn văn khó hiểu. Tóm lại, hãy bắt đầu lược  bỏ những từ ngữ thừa nghe có vẻ hay khi đọc thầm những không giúp gì nhiều khi nói thành tiếng. Khi tập dượt, bạn cũng có thể nhờ người khác trình bày  lại bài nói của bạn bằng từ ngữ của họ để tham khảo cách dùng từ.

NGÔN THANH

Các yếu tố ngôn thanh bao gồm âm lượng, tốc độ, và nhịp điệu. Bí quyết để điều khiển các yếu tố này là biến thể (variation) và sự uyển chuyển (fluency). Hãy tưởng tượng giọng nói của bạn như một cơn gió. Bạn có thể làm nó to hơn, nhẹ hơn, nhanh hơn hay chậm hơn. Não bộ của bạn được thiết kế để chú ý đến những thay đổi này, vì thế nên ta thường gặp khó khăn khi nghe một giọng nói đều đều. Thực tế, tăng các yếu tố ngôn thanh lên  chỉ  10%  cũng có thể có tác động lớn đến sự tập trung của khán giả và khả năng ghi nhớ thông điệp của họ.

Các diễn giả ít biểu lộ cảm xúc nên đa dạng hóa âm lượng và tốc độ bằng cách thêm vào bài nói các từ gợi cảm như “hào hứng”, “giá trị”, và “cam go” và điều chỉnh tông giọng để phù hợp với các từ này. Nếu bạn đang nói về một cơ hội lớn, vậy hãy nói “lớn” thật lớn. Dần dần thông qua luyện tập, bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn về kiểu biến đổi ngôn thanh này.

Từ lấp (disfluencies) – tất cả những từ như “ừm” hay “ờ” có thể là yếu tố ngôn thanh khó sửa nhất. Không phải từ lấp nào cũng gây xao nhãng. Chẳng hạn như “Ưum” và “ờ” trong câu không gây chú ý cũng như không gây khó chịu bằng những từ xuất hiện giữa các ý hoăc các cụm từ. Khán giả có thể sẽ bỏ qua những từ lấp ở giữa câu vì họ đang tập trung vào nội dung của bài nói hơn là cách truyền tải. Nhưng khi bạn chuyển từ một ý này sang ý khác, từ lấp sẽ trở nên nổi bật vì lúc này khán giả không còn tập trung vào những gì bạn nói. Một cách ngắn gọn, khán giả đang kỳ vọng một khoảng dừng yên lặng thì bạn lại lên tiếng.

Để giải quyết từ lấp khi chuyển giữa các ý, đảm bảo rằng bạn kết câu của mình, đặc biệt là khi đang nói về những ý quan trọng bằng cách thở ra. Khi kết thúc cụm từ của bạn bằng hơi thở ra, bạn sẽ phải bắt đầu ý tiếp theo bằng một hơi thở vào. Như vậy, bạn gần như không thể nói “ừm” (hay bất cứ từ khác kiểu vậy) khi hít vào. Một cách hiệu quả để luyện tập kỹ năng này là đọc thành tiếng và chú ý cách thở của bản thân. Bên cạnh việc loại bỏ các từ lấp, hởi thở cũng mang lại một khoảng dừng ngắn. Khoảng dừng này giúp bạn đa dạng tốc độ bài nói.

THỊ GIÁC

Các yếu tố thị giác (trong khung lý thuyết của Mehrabian) liên quan đến cách bạn chuyển động cơ thể. Zandan chỉ ra các nghiên cứu của các nhà giáo dục học gợi ý rằng 83% việc học tập của con người xảy ra thông qua thị giác. Những hành vi phi ngôn từ như tư thế đứng, cử chỉ, và ánh mắt không chỉ quan trọng trong việc truyền tải và củng cố thông điệp của bài nói, mà nó còn là tiêu chí để khán giả đánh giá sự tự tin của bạn. Điều này quan trọng vì khán giả sẽ xem năng lực của bạn ngang bằng với hình dung của họ về sự tự tin của bạn.

Bạn nên đứng một cách vững chãi và cân bằng. Đứng hoặc  ngồi để hông và vai của bạn tạo thành hình vuông (nghĩa là bạn không nên hướng về một bên) và giữ đầu thẳng, không nghiêng. Thuyết trình trong một tư thế cân bằng không những giúp bạn trông tự tin hơn, mà nó còn giúp bạn thực sự tự tin hơn. Khi bạn đứng vững, não bạn sẽ tiết ra một chất dẫn truyền thần kinh giúp chặn đứng các loại hóc môn gây lo âu.

Cử chỉ nên phóng khoáng và rộng rãi. Khi thực hiện bất cứ một cử chỉ nào,bạn nên mở rộng sang hai vai thay vì giữ trước ngực, vì nó sẽ làm bạn trông nhỏ bé và tự vệ. Khi không thực hiện cử chỉ, đặt hờ cánh tay ở hai bên hông, hoặc chắp tay nhẹ ngay trước bụng. Cuối cùng, loại bỏ tất cả những vật dụng có thể gây xao nhãng mà bạn có thể vọc vạch như trang sức, bút, hay điều khiển slide.

Mục đích lớn nhất của giao tiếp bằng mắt là để kết nối với khán giả. Trong văn hóa Bắc Mỹ, khán giả sẽ kỳ vọng điều này, và họ sẽ nhanh chóng cảm thấy bị né tránh nếu như bạn không nhìn họ. Bạn cần nhìn khắp khán phòng để kết nối với khán giả, nhưng không có nghĩa là bạn cần nhìn từng người một, đặc biệt là khi bạn đứng trước rất nhiều khán giả. Một cách hữu hiệu là chia khán phòng ra thành các  góc phần tư và nhìn theo các hướng đó. Tuy nhiên, bạn nên cố tránh nhìn theo một thứ nhất định khi lướt mắt. Cuối cùng, như lời khuyên của Zandan dành cho khách hàng, nếu bạn đang thuyết trình từ xa thông qua camera, hãy tưởng tượng bạn đang nói chuyện trực tiếp với mọi người và nhìn thẳng vào camera, đừng nhìn vào màn hình hay bàn phím.

CÁC YẾU TỐ THEN CHỐT:

Các yếu tố then chốt chính là con người thật của diễn giả. Một số diễn giả gọi các yếu tố này là sự chân thật. Nhóm của Zandan tìm ra rằng nhóm 10% những diễn giả chân thật nhất được tin tưởng hơn 1.3 lần và cũng có khả năng thuyết phục hơn 1.3 lần so với những diễn giả trung bình. Tính chân thật được tạo nên từ niềm đam mê và sự ấm áp khi người ta thuyết trình.

Niềm đam mê đến từ nguồn năng lượng vô tận và lòng nhiệt huyết. Khi chuẩn bị và luyện tập cho bài nói, hãy nghĩ về những lý do làm bạn hào hứng về chủ đề của mình và những lợi ích gì của bài nói cho khán giả. Gợi nhớ bản thân về động lực của mình có thể giúp bạn bơm thêm năng lượng (hoặc tái tạo lại năng lượng nếu như đây là chủ đề bạn đã nói đi nói lại nhiều lần). Bên cạnh đó, suy nghĩ về việc giúp khán giả, học, phát triển, và thành công sẽ giúp bạn hừng hực khí thế. Và nguồn năng lượng này sẽ tỏa ra thông qua cách bạn truyền tải thông tin. Nhưng không có nghĩa là bạn phải hừng hực  như một cổ động viên, mà bạn cần tìm ra phương pháp để truyền đạt thông tin một cách chân thật và ý nghĩa.

Ấm áp có thể được xem là một chỉ dấu của thấu cảm. Nó là sự kết hợp giữa việc hiểu như cầu của khán giả và diễn giải sự hiểu đó bằng ngôn từ và hành động của bạn. Để được xem là ấp ấm, bạn nên công nhận nhu cầu của khán giả bằng cách lặp lại chúng (“Giống như mọi người, mình cũng đã từng…”) và bằng cách kể những câu chuyện thể hiện bạn hiểu nhu cầu của họ thế nào, chẳng hạn như có một vị giám đốc đã đã kể về cuộc gọi nhờ hỗ trợ kỹ thuật khó khăn nhất cô từng gặp phải khi nói chuyện với bộ phận chăm sóc khách hàng của mình. Ngoài ra, bạn nên duy trì một tư thế thân thiện bằng cách nghiêng người về phía trước và tiến đến những khán giả đặt câu hỏi.

Trước bài nói tiếp theo, hãy thử nguyên tắc 4 chữ V và những gợi ý chi tiết đến từ dữ liệu lớn và công nghệ học máy để xem liệu rằng chúng có thể đáp ứng nhu cầu của bạn. Chỉ khi phản tư, luyện tập, và cởi mở với những điều mới bạn mới có thể trở thành một diễn giả giỏi và thu hút

Có bao giờ bạn thử phân tích bài nói của mình hay nhận xét bài nói của người khác bằng nguyên tắc 4 chữ V?

Bài viết gốc: https://www.gsb.stanford.edu/insights/big-data-approach-public-speaking

MEDIA LITERACY – THÔNG HIỂU TRUYỀN THÔNG (P1)

By Kieu Khanh

Kết thúc một tuần làm việc, bạn đã bao giờ tự hỏi: Trung bình tuần vừa qua, bạn đã dành bao nhiêu giờ đồng hồ để lên mạng đọc tin tức, nghe nhạc hoặc truy cập vào các trang mạng xã hội? Có thể là 1 tiếng, 2 tiếng hay 5 tiếng?

Theo bài báo cáo Global Digital Report 2019 bởi We are Social và Hootsuite [1], trung bình mỗi người Việt Nam dành 6 tiếng 42 phút để truy cập Internet thông qua tất cả các thiết bị điện tử, người Philippines dành 10 tiếng 02 phút (cao nhất trên thế giới) còn người Nhật sử dụng 3 tiếng 45 phút. Thêm vào đó, trung bình thời gian người Việt Nam sử dụng mạng xã hội là 2 tiếng 32 phút, trong khi người Phi-líp-pin dùng 4 tiếng 12 phút, người Nhật chỉ dành 36 phút và trung bình của thế giới là 2 tiếng 16 phút.

Với lượng thời gian truy cập mạng chiếm khoảng ¼ ngày, chúng ta đang tiếp cận nguồn tài nguyên tri thức truyền thông đa dạng và phức tạp. Vậy làm sao chúng ta có thể xử lý những thông tin này và nhìn nhận những ảnh hưởng của mạng xã hội đến cuộc sống thường ngày?

Từ vấn đề này, kênh Youtube Crash Course về giáo dục [2] đã đưa “media literacy” là một trong những kỹ năng cần thiết trong thời đại công nghệ 4.0, bao gồm các kỹ năng tiếp cận, đánh giá, phân tích và tạo ra thông điệp trong truyền thông xã hội. Bài viết này sẽ mang đến những kiến thức hữu ích liên quan đến media literacy hay còn gọi là thông hiểu truyền thông.

Media literacy là gì?

Theo định nghĩa của từ điển Cambridge, “literacy” là khả năng biết đọc và biết viết, rộng hơn còn có nghĩa là trình độ học vấn về một lĩnh vực nào đó. Nhưng nếu chỉ “biết đọc” khi tiếp xúc với truyền thông xã hội thì chưa đủ bởi chúng bao hàm rất nhiều hình ảnh, ngôn từ, âm thanh với ngữ pháp đặc biệt, cùng nhiều tầng ý nghĩa về thông điệp và tư tưởng.

Bên cạnh đó, “media” là số nhiều của “medium” hay truyền thông đa phương tiện. “Medium” là phương tiện truyền tải thông điệp, một “medium” có thể là tờ báo, tin nhắn, cuộc hội thoại, âm nhạc, tivi, radio, v.v. Trong khóa học Media Literacy được thực hiện bởi Crash Course, Jay Smooth đã đưa ra các ví dụ về “media” như sách, phim, tranh vẽ, bài hát, chương trình truyền hình, thơ ca, trò chơi điện tử, báo chí, podcast, video âm nhạc, báo in, diễn đàn trên mạng, phiếu giảm giá, thư cuối tuần gửi qua email, những dòng tweets, hóa đơn, biển báo giao thông, các tác phẩm nghệ thuật đường phố thể hiện thông điệp tốt hoặc xấu, bài đăng trên Snapchat, băng-rôn, áp-phích cổ động, những từ ngữ được viết trên tờ lịch mà dì của bạn mua tặng, thông báo về tin tức mới, bức ảnh hồi nhỏ mà bạn đăng trên mạng, hay đĩa blu-ray sao lưu bộ phim tuyệt vời xếp thứ hai mọi thời đại – Titanic, tất cả đều được gọi là “media”.

Hơn nữa, “the media” (phương tiện truyền thông đại chúng – mass communication) cũng bao hàm những kênh báo chí, truyền hình phân phối rộng rãi khắp đất nước, các trang web, đài phát thanh, hãng phim, và những phương tiện phân phối, cung cấp thông tin như kênh truyền hình CNN, tờ báo The New York Times, Đài phát thanh công cộng quốc gia (NPR), kênh Disney hoặc nền tảng chia sẻ trực tuyến Youtube.

Do vậy, từ những ví dụ nêu trên, chúng ta đang tiếp cận với rất nhiều hình thức truyền thông xã hội và thật khó có thể kiểm soát hay theo dõi những thông tin mà chúng ta tiếp nhận được mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày.

Để hiểu rõ hơn về media literacy, theo định nghĩa của National Association of Media Literacy Educators [3], thông hiểu truyền thông (media literacy) là “khả năng truy cập, phân tích, đánh giá, tạo ra và sử dụng tất cả các phương tiện truyền thông”.

“Media literacy is the ability to access, analyze, evaluate, create and act using all forms of communication.” 

Thông qua khái niệm này, khi tiếp cận với một nguồn thông tin mới, mỗi cá nhân cần đặt ra 5 câu hỏi quan trọng, bao gồm:

  1. Truy cập: Bạn đang tiêu thụ loại nội dung nào và làm sao để bạn tiếp cận được nó?
  2. Phân tích: Bạn có hiểu rõ thông điệp của nó không?
  3. Đánh giá: Bạn có nhận thức được rằng mỗi thông điệp được tạo ra bởi một ai đó và chúng dựa trên mục đích và quan điểm của họ?
  4. Kiến tạo: Khi tạo ra một hình thức truyền thông, giống như một bài đăng trên trang cá nhân hay trên Instagram, bạn có trách nhiệm gì với những người nhìn thấy nó?
  5. Phản hồi: Bạn sẽ làm gì với những thông tin mới nhận được?

Với sự tràn lan của thông tin đại chúng một cách khó kiểm soát, chúng ta cũng cần chất vấn: Tôi có thể tin tưởng nguồn thông tin nào? (“What information can I truly trust?”)

Marshall McLuhan, một triết gia người Canada, từng nói: “Cách chúng ta giao tiếp quan trọng hơn những điều chúng ta giao tiếp.” (“The way we communicate is more important than what we communicate”). Ông ngụ ý rằng, bất kỳ loại hình truyền thông nào đều có thể thay đổi cách chúng ta suy nghĩ, tư duy và điều ấy cũng sẽ thay đổi mối quan hệ của chúng ta với thế giới bên ngoài.

Và dù bạn có tự tin vào khả năng sử dụng công nghệ và mạng xã hội cũng như hiểu biết về quyền năng quản lý của các tập đoàn công nghệ như thế nào, học media literacy sẽ giúp bạn nhìn nhận mọi thứ sâu sắc và tinh tường hơn, như đeo thêm một cặp kính mới. Và rồi, chỉ khi đã thử đeo nó, bạn sẽ không bao giờ muốn tháo nó ra khi tiếp cận với nguồn thông tin truyền thông xã hội.

Câu chuyện về báo lá cải (Yellow Journalism/Tabloid Journalism)

Theo Giáo sư Frank Esser, Mỹ và Anh có nền công nghiệp báo chí lá cải lâu đời nhất lịch sử [4]. Đặc biệt, “báo lá cải” bắt nguồn từ “yellow journalism” ở Mỹ vào những năm 1890 với mục đích không chỉ cung cấp thông tin mà còn tăng lợi nhuận cho tòa báo.

Ngoài ra, thuật ngữ “yellow journalism” cũng ám chỉ loại báo tập trung đến các xu hướng giật gân, thổi phồng thông tin hơn là cung cấp sự thật. Thuật ngữ này xuất hiện từ cuộc đua về doanh thu trên thị trường báo chí thành phố New York giữa hai tòa báo lớn – tờ New York World – Joseph Pulitzer và tờ New York Journal – William Randolph Hearst. Khi tờ New York World nổi tiếng với series truyện tranh “Ngõ của Hogan” (Hogan’s Alley) cùng nhân vật chính là một cậu bé mặc đồ màu vàng (the Yellow Kid) được vẽ bởi họa sỹ Outcault, chủ bút Pulitzer đã nhận được số lượng phát hành tăng vọt cho tờ báo của ông. Năm 1896, nhằm tăng doanh thu cho tờ New York Journal, Hearst đã cố gắng lôi kéo và mua chuộc Outcault về tờ báo của mình. Nhưng chủ bút Pulitzer không hề bỏ cuộc, ông đã thuê một họa sỹ khác và tiếp tục vẽ nhân vật truyện tranh cho tờ New York World. Nhờ có nhân vật “the Yellow Kid” nổi tiếng, lợi nhuận của serie truyện tranh này đã khởi nguồn cho thuật ngữ “yellow journalism” [5] [6].

Đáng chú ý, trong thời hoàng kim vào cuối thế kỷ 19, báo lá cải cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha ở Cuba và Philippines, dẫn đến cuộc tranh giành lãnh thổ nước ngoài và sau cùng, Mỹ chiếm được một phần lãnh thổ thuộc địa nước ngoài từ Tây Ban Nha [5].

Trong khi ở Anh, báo lá cải (tabloid journalism) ra mắt lần đầu tiên khi Lord Northcliffe xuất bản tờ Daily Mirror năm 1903 và  biến nó trở thành tờ báo lá cải đầu tiên ở quốc gia này [4]. Sau đó, Northcliffe giới thiệu ý tưởng báo lá cải đến Joseph Medill Patterson, đối tác của tờ báo Chicago Tribune và bắt đầu tờ Illustrated Daily News ở New York vào năm 1919 như một tờ báo lá cải đầu tiên được công nhận ở Mỹ với mỗi tờ báo trị giá chỉ 2 xu [7].

Bên cạnh đó, người Anh quốc cũng phân biệt rõ ràng báo lá cải với báo chính thống [8]. Họ coi những tờ báo lá cải cung cấp các tin giật gân về cướp-giết-hiếp, soi mói các nhân vật nổi tiếng, bàn chuyện phiếm, xem bói và tin tức lặt vặt.

Theo nhà báo Phạm Đoan Trang (2014) [9], báo lá cải được coi là loại báo đưa thông tin với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, không đại diện cho quyền lợi của xã hội giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền-nhà nước cũng như không tố cáo, phát hiện các hiện tượng sai trái, tiêu cực trong xã hội, mặc dù vẫn dựa theo nguyên tắc chính xác và công bằng của ngành báo chí. Bên cạnh đó, báo chí giải trí (entertainment media) cũng là loại báo nhằm tối đa hóa lợi nhuận, giúp người tiêu dùng thư giãn, giải trí, không coi trọng tính chính xác, sự công bằng, hay giám sát chính quyền. Chẳng hạn, báo lá cải gồm Ngôi Sao, 2Sao, Tin Tức Online còn báo giải trí có Kênh 14, Haivl, v.v.

Hơn nữa, báo chí trong Luật Báo chí Việt Nam (2016) được định nghĩa “là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.” [10]. Nhưng báo chí không chỉ có mục đích cung cấp, phân phối, truyền đạt thông tin mà còn để kiếm tiền, đem lại lợi nhuận cho bất kỳ tổ chức nào phân phối, thực hiện nội dung ấy. [11]

Ngoài ra, chúng ta có xu hướng tin vào những thứ mà chúng ta muốn tin – hay còn gọi là thiên kiến xác nhận (confirmation bias). Ví dụ, bạn Nam có niềm tin rằng những người thuận tay trái sáng tạo hơn những người thuận tay phải. Khi bạn ấy gặp một người vừa thuận tay trái và có thiên hướng nghệ sĩ, bạn ấy sẽ củng cố thêm bằng chứng ủng hộ niềm tin đã có sẵn của bạn về người thuận tay trái sáng tạo, và có thể sẽ bỏ qua hoặc phủ nhận những bằng chứng không liên quan đến niềm tin này [12], chẳng hạn như bằng chứng về người thuận tay phải cũng sáng tạo như người thuận tay trái. Tận dụng hiệu ứng tâm lý này, các công ty quản lý phương tiện truyền thông tạo dụng thông tin bạn tiếp nhận hay nhìn thấy thông qua phân tích hành vi con người, tâm lý học, nhân khẩu học như độ tuổi, giới tính, thói quen, sở thích, đề tài bạn thường quan tâm, v.v. và cả thuật toán máy tính để đoán trước các hành vi tiêu dùng của bạn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta thu thập, tiếp cận thông tin và cũng ảnh hưởng cách chúng ta hiểu, giải thích và nhớ lại những thông tin đã tiếp cận.

Cuối cùng, tác giả muốn trích dẫn một câu nói trên mạng xã hội, “nếu bạn không phải trả tiền cho sản phẩm của họ, bạn chính là món hàng của họ” [13]. Và khi tiếp cận với một nguồn thông tin mới, thay vì “Follow your guts!” (Lắng nghe con tim) hay còn được hiểu theo nghĩa “Follow your perceptions of bias and textual analysis skills” (Lắng nghe cảm nhận về thiên kiến, định kiến và những kỹ năng phân tích văn bản của bạn), hãy suy nghĩ cẩn trọng và có chính kiến trước những nguồn thông tin đa dạng trên mạng truyền thông.

Và bạn có thể thực hành ngay sau khi đọc xong câu trích dẫn vừa rồi, bạn có chắc chúng ta là món hàng của tất cả phương tiện truyền thông xã hội nếu chúng ta không trả tiền cho họ? Và điều ấy có thật sự đúng không?

Bài viết phần 2 về media literacy sẽ cung cấp những “cái bẫy” mà truyền thông xã hội ảnh hưởng đến chúng ta.

Tác giả: Kiều Khanh

Tham khảo:

[1] Global Digital Report 2019 https://wearesocial.com/global-digital-report-2019 (Slide 40, 77). Accessed 01/12/2020

[2] Crash Course: Media Literacy

https://www.youtube.com/watch?v=sPwJ0obJya0&list=PL8dPuuaLjXtM6jSpzb5gMNsx9kdmqBfmY Accessed 29/11/2020

[3] National Association of Media Literacy Educators.  https://namle.net/resources/media-literacy-defined/ Accessed on 03/12/2020

[4] Esser, Frank (1999). Tabloidization of News. A Comparative Analysis of Anglo-American and German Press Journalism. European Journal of Communication, 14:3, 291-324. [294]

[5] U.S Diplomacy and Yellow Journalism, 1895-1898. Retrieved from https://history.state.gov/milestones/1866-1898/yellow-journalism. Accessed 03/12/2020.

[6] Yellow Journalism. Retrieved from https://willingo.com/yellow-journalism/ Accessed 01/12/2020

[7] How NY Daily News found success as first U.S tabloid in 1919. 2019. Retrieved from https://www.nydailynews.com/new-york/ny-daily-news-founded-1919-20190623-nyrfketymfc5niilj43uef4sua-story.html. Accessed 03/12/2020.

[8] Nguyễn Hùng. 2012. Thế nào là báo “lá cải”? Báo Lao Động. https://laodong.vn/archived/the-nao-la-bao-la-cai-676522.ldo. Accessed 02/12/2020

AGoose. 2019. Những điều mình học được từ khóa học Media Literacy https://spiderum.com/bai-dang/Nhung-Dieu-Minh-Hoc-Duoc-Tu-Khoa-Hoc-Media-Literacy-ekf Accessed 30/11/2020

[9] Phạm Đoan Trang. 2014. Căn bản về Truyền thông và Báo chí.

[10] Quốc hội Việt Nam. 2016. Luật báo chí Việt Nam 2016.  https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa-xa-hoi/Luat-Bao-chi-2016-280645.aspx

[11] Media Literacy – Chúng ta có thể bị truyền thông dắt mũi như thế nào

https://lazycattt.wordpress.com/2019/10/03/media-literacy-chung-ta-co-the-bi-truyen-thong-dat-mui-nhu-the-nao/ Accessed 30/11/2020

[12] Kendra Cherry. (2020). How confirmation bias works. Updated 19/02/2020. Accessed 03/12/2020

https://www.verywellmind.com/what-is-a-confirmation-bias-2795024

[13] MetaFilter, community weblog, blue_beetle’s profile https://www.metafilter.com/user.mefi/15556